10 Chuyên đề Tiếng Việt lớp 11 Chân trời sáng tạo (Lý thuyết + Bài tập)

18 9 lượt tải
Lớp: Lớp 12
Môn: Ngữ Văn
Bộ sách: Chân trời sáng tạo
Dạng: Chuyên đề
File:
Loại: Tài liệu lẻ


CÁCH MUA:

  • B1: Gửi phí vào TK: 0711000255837 - NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng Vietcombank (QR)
  • B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official ( nhấn vào đây ) để xác nhận thanh toán và tải tài liệu - giáo án

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85


Bộ Chuyên đề Tiếng Việt lớp 12 (Lý thuyết+Bài tập) đã cập nhật đủ Cả năm.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên! 

  • Bộ Tài liệu Chuyên đề Tiếng Việt lớp 12 Chân trời sáng tạo với lý thuyết chi tiết (định nghĩa, phân loại, tác dụng) và bài tập đa dạng có hướng dẫn giải giúp Giáo viên có thêm tài liệu giảng dạy Tiếng Việt lớp 12.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(18 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

Mô tả nội dung:


Biện pháp tu từ nói mỉa, nghịch ngữ
I. Biện pháp tu từ nói mỉa là gì?
- Nói mỉa (biếm dụ) là biện pháp tu từ sử dụng cách diễn đạt có nghĩa tường
minh khác với điều người nói, người viết muốn thể hiện, nhằm bộc lộ thái độ
mỉa mai, châm biếm hay sự đánh giá mang tính phủ định ngầm ẩn của người nói,
người viết đối với sự vật, sự việc được đề cập. Nói mỉa thường được sử dụng
trong giao tiếp hằng ngày và trong sáng tác văn chương, đặc biệt là trong thơ văn trào phúng.
- Trong nói mỉa, người nói, người viết tạo ra sự mâu thuẫn cố ý giữa phần hiển
ngôn và phần hàm ngôn của một lời nói hay của cả chuỗi phát ngôn:
+ Phần hiển ngôn (ý nghĩa bề mặt của từ ngữ): thái độ tán thành, khen ngợi hoặc trung lập khách quan.
+ Phần hàm ngôn (ý nghĩa đánh giá của người nói/ người viết): thái độ phủ nhận hoặc dè bỉu.
=> Sự mâu thuẫn giữa hai tầng nghĩa càng lớn thì tác dụng châm biếm, đả kích
càng mạnh mẽ. Để hiểu được ý nghĩa đánh giá thực của nói mỉa, người nghe/
người đọc cần dựa vào ngữ cảnh, giọng điệu và các yếu tố phi ngôn ngữ đi kèm
lời nói (nét mặt, cử chỉ).
Ví dụ: Anh chị khiến tôi đẹp mặt quá! (Ngụ ý đánh giá của đẹp mặt mất mặt)
II. Tác dụng của biện pháp tu từ nói mỉa
- Tăng sức biểu cảm: Thể hiện rõ nét tình cảm, thái độ của người nói.
- Dùng để lên án, phê phán và châm biếm những kẻ xấu xa, mang thói xấu.
- Đôi khi nói mỉa cũng được dùng với mục đích bông đùa, trêu chọc trong phạm
vi giao tiếp thân mật, gần gũi.
III. Dấu hiệu nhận biết biện pháp tu từ nói mỉa
- Trong lời nói xuất hiện những từ, cụm từ vốn thể hiện chiều hướng đánh giá
tiêu cực về một đối tượng: Hay ho, hay hớm, đẹp mặt, tốt mã, làm ca thiên hạ,
ăn trắng mặc trơn, mèo mù vớ cá rán,…
Ví dụ: "Hay ho nhỉ?"; "Đẹp mặt chưa
kìa!"…; Trong các cụm từ in đậm ở hai ví dụ, các yếu tố “hay”, “đẹp” biểu thị
sự đánh giá tích cực, nhưng nghĩa của cả từ, cụm từ lại thể hiện một thái độ trái
ngược, hàm ý phê phán, chê bai.
- Người nói, người viết nêu những tình huống, điều kiện phi lí gắn với khả năng,
hành động, sự việc đang được nói tới. Ví dụ: “Hắn mà làm được điều đó thì tôi đi đầu xuống đất!”.
- Có sự pha trộn đáng ngờ giữa kiểu nói lịch sự và nói quá. Ví dụ: “Cám ơn ngài,
ngài đã dạy quá lời”; “Kẻ hèn mọn này đâu dám đứng ngang hàng với các vị”.
- Có sự xuất hiện của yếu tố nhại trong phát ngôn. Ví dụ:
Hẩu lố, mét xì thông mọi tiếng
Chẳng sang Tàu cũng tếch sang Tây.
(Trần Tế Xương, Mai mà tớ hỏng)
- Có sự thay đổi bất ngờ về cách trần thuật hay giọng điệu trần thuật ngay trong
một đoạn văn. Ví dụ: "Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi
ngã. Nó chật vật mãi cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái
khăn trắng to tướng, cái áo thụng trắng lòe xòe, ông phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.

- Hứt!. . Hứt!. . Hứt!. ."
(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
Đọc đoạn trích trên, độc giả nhận thấy tiếng cười mỉa mai bật ra khi tác giả cố
tình mô phỏng âm thanh tiếng khóc nấc một cách khác thường, ngược với lối
trần thuật có vẻ khách quan trước đó.
IV. Bài tập về biện pháp tu từ nói mỉa
Bài 1. Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp tu từ nói mỉa trong các trường hợp sau:
a. - Thế sao bác cũng chủ trương cải cách trong báo của bác?
- Là vì tôi cũng như bác giai. Phụ nữ nghĩa là vợ con chị em người khác, chứ
không phải vợ con chị em của tôi. Gia đình tôi thì cứ phải theo cổ, không được
có hạng đàn bà ăn mặc tân thời nay khiêu vũ, mai chợ phiên, rồi về nhà chửi lại
mẹ chồng bằng những lí thuyết bình quyền với giải phóng!
Ông nhà báo nói một cách quả quyết như những nhà văn sĩ cấp tiến làm cho
nhà mĩ thuật cũng hăng hái nói tiếp:
- Đối với tôi ấy à?. . Đàn bà cứ nhốt trong buồng. Mợ đã hiểu ra chưa?

(Vũ Trọng Phụng, Số đỏ)
b. A-mê-li-a rất tán thành cuộc hôn nhân của anh trai, đúng như tính tình khôn
ngoan của một thiếu nữ trẻ tuổi như cô ta.

(Uy-li-am Thác-co-rây, Hội chợ phù hoa)
c. Mỗi khi xuống nhà ăn cơm, cô lại khoác tay Giô đi, như là một điều dĩ nhiên;
cô đã ngồi cạnh Giô trên chiếc xe riêng mui trần của anh ta (Giô thật là một
con hươu đầu đàn lẫm liệt, vì anh ta ngồi rất bình thản trên xe tự điều khiển lấy
đôi ngựa xám của mình).

(Uy-li-am Thác-co-rây, Hội chợ phù hoa)
d. Tri phủ Xuân Trường được mấy niên,
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên.
Chữ "thôi" chữ "cứu" không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ "tiền"!

(Trần Tế Xương, Bỡn tri phủ Xuân Trường) Trả lời:
a. “Ông nhà báo nói một cách quả quyết như những nhà văn sĩ cấp tiến”: Những
lời nhà báo vừa nói (Gia đình tôi thì cứ phải theo cổ…) thật sự không hề “cấp
tiến” mà ngược lại rất hủ lậu.
b. “Đúng như tính tình khôn ngoan của một thiếu nữ trẻ tuổi như cô ta”: Thiếu
nữ trẻ tuổi thường bồng bột, ngây thơ, nông nổi, A-mê-li-a cũng vậy. Chính vì
không khôn ngoan nên A-mê-li-a bị Rê-béc-ca lừa gạt, tin vào tình bạn của cô đối với mình.
c. “Giô thật là một con hươu đầu đàn lẫm liệt, vì anh ta ngồi rất bình thản trên
xe tự điều khiển lấy đôi ngựa xám của mình”: Với giới thượng lưu Anh thế kỉ
XIX thì chuyện tụ điều khiển xe ngựa là chuyện bình tượng, nhưng với Giô thì
việc điều khiển xe lại lẫm liệt vì anh ta quá béo, lười biếng và thụ động.
d. Mâu thuẫn giữa sự “bình yên” của hạt Xuân Trường và vị tri phủ quen làm
việc bằng tiền, cho thấy sự nhiễu nhương, thối nát của xã hội giấu dưới vẻ bề
ngoài bình thường, êm ả.
Tác dụng: Bộc lộ thái độ mỉa mai, châm biếm, tạo hiệu quả hài hước cho văn bản.
Bài 2. Xác định biện pháp tu từ nói mỉa và phân tích hiệu quả của nó ở từng trường hợp sau đây:
a. Công chúng luôn vỗ tay hoan hô Xuân, còn trên khán đài, đức vua Xiêm đã lộ
ra mặt rồng tất cả sự thịnh nộ của vị thiên tử thế thiên hành đạo ở cái nước có hàng triệu con voi.

(Vũ trọng Phụng, Số đỏ)
b. Trên mép ông, ông đã bao công trình mới cấy được từng ấy râu. [. .] Thì sau
hết, những lông tơ nó cũng dài ra, và trông rõ hơn. Và đến bây giờ, đứng ở hai
bên miệng ông, nó hình thành hai cái dấu chua nghĩa (. .)


zalo Nhắn tin Zalo