ĐỀ 1
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN
ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ I
……………………..
Năm học: 20…. – 20…..
Môn: Ngữ văn – Lớp 11 ĐỀ SỐ 1
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.
Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây
dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong
chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay người và những
cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên
trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng, chờ lệnh hạ cánh xuống.
Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết ong một cách
không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ xông tới đốt. Rồi ong cũng
lăn ra chết, linh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi to,
vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có phải
lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn một số tạp chí
khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng đó là một thế giới đầy
sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó là một bài học về tính kiên
nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo và sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong,
theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến
(bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các nơi có hoa trong vùng. Và trong nửa lít mật ong
đóng chai, phân chất ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì
tổng cộng đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.
Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say trong
chính mình là mặc dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình cũng là
một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích luỹ ở mình cũng ngày càng có
giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đối hoa xuân, lắng ong mật mà
thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo
ngữ ồn ào. Bước phù phiếm cũng bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng chẳng
để lại gì. Từ ngày lịch sử tiến hoá loài người, chưa ai nói đến mật bướm
Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải là
hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ
đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một hạt bụi biển
xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai.
Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước rãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có
những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đầu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình
(và vì trai chết nên cát bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn
sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy cái hạt đau xót. Tới một thời
gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai đã trở thành lõi
sáng của của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.
Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc trên
cổ người “con hát” một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc với mảy
bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới biết rõ thấn
thể của ngọc trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu chót cùng nơi cổ
nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình lâu dài, đầu kia
quá trình là một vết thương lòng và đầu này là quá trình là một niềm vui. Đầu kia
quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một giọt tài nguyên Tổ quốc ta bao la cát bãi.
Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào sự biểu dương một công tác, một
công trạng, một công trình. Cũng bằng cái cách đó mà hiểu được bước sinh trưởng
của một đoá hoa thơm, trước khi nó được làm cái nụ đầu thai vào vườn người.
Nhìn ngọn hoa sáng chói công khai giữa bầu giời mà không khỏi không bận lòng
vì lũ rễ cái, rễ con trong bóng tối lòng đất kín: rễ trong kia chỉ liên lạc được với
hoa ngoài đây bằng con đường nhựa đắng duy nhất của ruột mình. Nhìn bông hoa
nở tập kết nơi đất Bắc (1963) càng thấy bồi hồi vì cái rễ máu mình đang thọc sâu
rừng Tây Nguyên, rừng U Minh, thọc sâu và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn.
(Trích Tờ hoa, Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 2), NXB Văn học, 1998, trang 5-7).
Câu 1. Dòng nào không nói lên đặc điểm của văn bản Tờ hoa?
A. Chất trữ tình; chất khảo cứu.
B. Chất trữ tình; chất truyện.
C. Chất trữ tình; hồi ức/ hồi tưởng.
D. Dựa trên tiêu chí về đề tài.
Câu 2. Yếu tố tự sự và vai trò của chúng trong văn bản Tờ hoa là
A. Cốt truyện, sự việc, nhân vật.
B. Các sự việc mà tác giả đã trải qua
C. Câu chuyện/các sự việc đời sống có liên quan đến mạch cảm xúc, liên tưởng và suy ngẫm của tác giả.
D. Câu chuyện/các sự việc đời sống khơi gợi mạch cảm xúc, tình cảm của tác giả.
Câu 3. Những số liệu trong đoạn văn: Từ “Người ta ... của 2.700.000 chuyến (bay)
đi...đến là 8.000.000 cây sổ” nhằm thể hiện suy ngẫm gì của người viết?
A. Dòng cảm xúc trước con người/cuộc sống.
B. Mạch liên tưởng, suy tư trước sự việc, con người.
C. Tình huống nhận thức.
D. Bài học về tính kiên nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo va sáng tạo.
Câu 4. Câu văn “Sự tích luỹ ở mình cũng ngày càng có giọt ra mà phần nào đem
thơm thảo vào sự sống” thể hiện ý nghĩa gì trong nghề viết?
A. Quá trình thâm nhập thực tiễn đời sống sẽ tạo nên những tác phẩm hay cho đời.
B. Nhà văn càng chịu khó học hỏi, thâm nhập cuộc sống sẽ đem đến giá trị, ý nghĩa cho tác phẩm.
C. Nhà văn cần sống trọn vẹn với đời sống sẽ viết được những tác phẩm hay.
D. Quá trình thâm nhập, tích lũy vốn sống, vốn văn hóa sẽ giúp nhà văn tạo ra
những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, ý nghĩa.
Câu 5. Mạch gắn kết câu chuyện về con ong, về nghề văn và cách tạo ra ngọc trai
thể hiện suy ngẫm độc đáo nào của tác giả?
A. Hành trình gian nan để tạo ra cái Đẹp trong cuộc đời.
B. Quá nhìn đạt thành tựu, kết quả trong cuộc sống.
C. Sự tương đồng/khác biệt giữa vẻ đẹp tự nhiên và sáng tạo nghệ thuật.
D. Bất kỳ vẻ đẹp nào trong đời sống cũng bắt nguồn từ sự kiên nhẫn và khổ đau.
Câu 6. Dòng nào không nói lên những triết lí về lao động và sáng tạo nghệ thuật trong tùy bút trên?
A. Để hiểu thấu cuộc sống và sáng tạo, cần sống trọn vẹn/thâm nhập hiện thực.
B. Sáng tạo là quá trình phát hiện tình huống/sự kiện độc đáo của thực tiễn.
C. Cái Đẹp chân chính bắt nguồn từ quá trình lao động, sáng tạo thực sự.
D. Giá trị lao động thực sự sẽ tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân
Câu 7. Qua mạch liên tưởng về con ong và sự hình thành ngọc trai, tác giả đã phát
hiện những vẻ đẹp nào của cuộc sống?
A. Vẻ đẹp của thế giới tự nhiên muốn màu.
B. Vẻ đẹp văn hóa, lịch sử, địa lý.
C. Quá trình sáng tạo, lao động trong cuộc sống.
D. Vẻ đẹp của sự kiên nhẫn, sáng tạo, khổ đau âm thẩm.
Câu 8. Dòng nào không nêu lên đặc điểm cái Tôi tác giả trong tùy bút Tờ hoạt
A. Mong muốn, khao khát khám phá những vùng đất mới của Tổ Quốc.
B. Ý thức với nghề, mong muốn thức tỉnh tâm linh con người về cái Đẹp.
C. Tự tin, tự hào với vẻ đẹp con người, dân tộc thời kỳ mới.
Đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo (đề 1)
1.3 K
650 lượt tải
MUA NGAY ĐỂ XEM TOÀN BỘ TÀI LIỆU
CÁCH MUA:
- B1: Gửi phí vào TK:
0711000255837
- NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng Vietcombank (QR) - B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official ( nhấn vào đây ) để xác nhận thanh toán và tải tài liệu - giáo án
Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85
Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD, LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.
Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!
Thuộc bộ (mua theo bộ để tiết kiệm hơn):
- Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ 10 đề giữa kì 1 gồm đầy đủ ma trận và lời giải chi tiết môn Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo mới nhất năm 2023 - 2024 nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ văn lớp 11.
- File word có lời giải chi tiết 100%.
- Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.
Đánh giá
4.6 / 5(1299 )5
4
3
2
1
Trọng Bình
Tài liệu hay
Giúp ích cho tôi rất nhiều
Duy Trần
Tài liệu chuẩn
Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)
TÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY MÔN Ngữ Văn
Xem thêmTÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY Lớp 11
Xem thêmTài liệu bộ mới nhất
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
ĐỀ 1
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN
……………………..
ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ I
Năm học: 20…. – 20…..
Môn: Ngữ văn – Lớp 11
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966.
Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây
dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong
chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay người và những
cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên
trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng, chờ lệnh hạ cánh xuống.
Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết ong một cách
không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ xông tới đốt. Rồi ong cũng
lăn ra chết, linh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi to,
vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có phải
lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn một số tạp chí
khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng đó là một thế giới đầy
sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó là một bài học về tính kiên
nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo và sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong,
theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến
(bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các nơi có hoa trong vùng. Và trong nửa lít mật ong
đóng chai, phân chất ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì
tổng cộng đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.
ĐỀ SỐ 1
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say trong
chính mình là mặc dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình cũng là
một con sinh vật đang nung một thứ mật gì. Sự tích luỹ ở mình cũng ngày càng có
giọt ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đối hoa xuân, lắng ong mật mà
thêm ngẫm tới đàn bướm tốt mã chấp chới bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo
ngữ ồn ào. Bước phù phiếm cũng bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng chẳng
để lại gì. Từ ngày lịch sử tiến hoá loài người, chưa ai nói đến mật bướm
Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải là
hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ
đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một hạt bụi biển
xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai.
Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước rãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có
những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đầu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình
(và vì trai chết nên cát bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn
sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy cái hạt đau xót. Tới một thời
gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai đã trở thành lõi
sáng của của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.
Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc trên
cổ người “con hát” một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc với mảy
bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới biết rõ thấn
thể của ngọc trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu chót cùng nơi cổ
nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình lâu dài, đầu kia
quá trình là một vết thương lòng và đầu này là quá trình là một niềm vui. Đầu kia
quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một giọt tài nguyên Tổ
quốc ta bao la cát bãi.
Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào sự biểu dương một công tác, một
công trạng, một công trình. Cũng bằng cái cách đó mà hiểu được bước sinh trưởng
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
của một đoá hoa thơm, trước khi nó được làm cái nụ đầu thai vào vườn người.
Nhìn ngọn hoa sáng chói công khai giữa bầu giời mà không khỏi không bận lòng
vì lũ rễ cái, rễ con trong bóng tối lòng đất kín: rễ trong kia chỉ liên lạc được với
hoa ngoài đây bằng con đường nhựa đắng duy nhất của ruột mình. Nhìn bông hoa
nở tập kết nơi đất Bắc (1963) càng thấy bồi hồi vì cái rễ máu mình đang thọc sâu
rừng Tây Nguyên, rừng U Minh, thọc sâu và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn.
(Trích Tờ hoa, Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 2), NXB Văn học, 1998, trang 5-7).
Câu 1. Dòng nào không nói lên đặc điểm của văn bản Tờ hoa?
A. Chất trữ tình; chất khảo cứu.
B. Chất trữ tình; chất truyện.
C. Chất trữ tình; hồi ức/ hồi tưởng.
D. Dựa trên tiêu chí về đề tài.
Câu 2. Yếu tố tự sự và vai trò của chúng trong văn bản Tờ hoa là
A. Cốt truyện, sự việc, nhân vật.
B. Các sự việc mà tác giả đã trải qua
C. Câu chuyện/các sự việc đời sống có liên quan đến mạch cảm xúc, liên tưởng và
suy ngẫm của tác giả.
D. Câu chuyện/các sự việc đời sống khơi gợi mạch cảm xúc, tình cảm của tác giả.
Câu 3. Những số liệu trong đoạn văn: Từ “Người ta ... của 2.700.000 chuyến (bay)
đi...đến là 8.000.000 cây sổ” nhằm thể hiện suy ngẫm gì của người viết?
A. Dòng cảm xúc trước con người/cuộc sống.
B. Mạch liên tưởng, suy tư trước sự việc, con người.
C. Tình huống nhận thức.
D. Bài học về tính kiên nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo va sáng tạo.
Câu 4. Câu văn “Sự tích luỹ ở mình cũng ngày càng có giọt ra mà phần nào đem
thơm thảo vào sự sống” thể hiện ý nghĩa gì trong nghề viết?
A. Quá trình thâm nhập thực tiễn đời sống sẽ tạo nên những tác phẩm hay cho đời.
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
B. Nhà văn càng chịu khó học hỏi, thâm nhập cuộc sống sẽ đem đến giá trị, ý nghĩa
cho tác phẩm.
C. Nhà văn cần sống trọn vẹn với đời sống sẽ viết được những tác phẩm hay.
D. Quá trình thâm nhập, tích lũy vốn sống, vốn văn hóa sẽ giúp nhà văn tạo ra
những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, ý nghĩa.
Câu 5. Mạch gắn kết câu chuyện về con ong, về nghề văn và cách tạo ra ngọc trai
thể hiện suy ngẫm độc đáo nào của tác giả?
A. Hành trình gian nan để tạo ra cái Đẹp trong cuộc đời.
B. Quá nhìn đạt thành tựu, kết quả trong cuộc sống.
C. Sự tương đồng/khác biệt giữa vẻ đẹp tự nhiên và sáng tạo nghệ thuật.
D. Bất kỳ vẻ đẹp nào trong đời sống cũng bắt nguồn từ sự kiên nhẫn và khổ đau.
Câu 6. Dòng nào không nói lên những triết lí về lao động và sáng tạo nghệ thuật
trong tùy bút trên?
A. Để hiểu thấu cuộc sống và sáng tạo, cần sống trọn vẹn/thâm nhập hiện thực.
B. Sáng tạo là quá trình phát hiện tình huống/sự kiện độc đáo của thực tiễn.
C. Cái Đẹp chân chính bắt nguồn từ quá trình lao động, sáng tạo thực sự.
D. Giá trị lao động thực sự sẽ tạo nên bản sắc của mỗi cá nhân
Câu 7. Qua mạch liên tưởng về con ong và sự hình thành ngọc trai, tác giả đã phát
hiện những vẻ đẹp nào của cuộc sống?
A. Vẻ đẹp của thế giới tự nhiên muốn màu.
B. Vẻ đẹp văn hóa, lịch sử, địa lý.
C. Quá trình sáng tạo, lao động trong cuộc sống.
D. Vẻ đẹp của sự kiên nhẫn, sáng tạo, khổ đau âm thẩm.
Câu 8. Dòng nào không nêu lên đặc điểm cái Tôi tác giả trong tùy bút Tờ hoạt
A. Mong muốn, khao khát khám phá những vùng đất mới của Tổ Quốc.
B. Ý thức với nghề, mong muốn thức tỉnh tâm linh con người về cái Đẹp.
C. Tự tin, tự hào với vẻ đẹp con người, dân tộc thời kỳ mới.
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
D. Say mê, khao khát khám phá cái Đẹp.
Câu 9. Mục đích của tác giả trong tùy bút Tờ hoa:
A. Lý giải hành trình gian nan, vất vả để tạo vẻ đẹp cuộc sống.
B. Ca ngợi vẻ đẹp đất nước, con người bước vào thời kỳ xây dựng mới.
C. Khám phá quy luật hình thành cái Đẹp, bộc lộ niềm tin yêu, tự hào về con
người, đất nước thời kỳ mới.
D. Nêu tuyên ngôn sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Câu 10. Dòng nào nhận định về phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân
A. “Sáng tác ... giàu chất thơ, và đọc ông, đời sống bên trong có phong phú hơn, tế
nhị hơn; chúng “đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm tho và mát
dịu”
(Nguyễn Tuân).
B. “...không dừng lại ở sự mô tả mà loang ra, trộn vào quá khứ gần quá khứ xa, để
rồi trồi lên khát vọng... để thức nhận cái hoàn mỹ của các hiện tượng và sự vật
trong sự ràng buộc lẫn nhau”
(Cao Ngọc Thắng).
C. “... có khuynh hướng tìm về với sự ảo diệu của từ láy tiếng Việt, lớp từ thiên về
sự biểu đạt trạng thái biến đổi tinh vi của cảnh vật cùng những cảm xúc mong
manh, vi tế của giác quan, tâm hồn con người”
(VŨ DIỄM TRÂM).
D. “Lối viết ... thường tập trung vào một điểm và vận dụng một cách tổng hợp cách
khảo sát của nhiều ngành văn hóa khác nhau để đào đến “sơn cùng thủy tận”
(Nguyễn Đăng Mạnh).
Câu 11. Bức thông điệp được gửi gắm qua tùy bút Tờ hoa là gì?
A. Ca ngợi một dân tộc yêu cái Đẹp, sống rất đẹp.
B. Trân trọng lĩnh vực nghệ thuật – nơi sáng tạo ra cái Đẹp chân chính.
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
C. Khẳng định cái Đẹp trong cuộc sống không ngẫu nhiên mà là kết quả của quá
trình nỗ lực, sáng tạo, khổ đau âm thầm.
D. Niềm say mê, tự hào của cá nhân khi được gắn bó, hòa nhập với tập thể.
Câu 12. Nhan đề Tờ hoa gợi cho em những suy ngẫm gì về vẻ đẹp của trang văn
với trang đời? Từ đó, nhận xét cảm hứng chủ đạo trong văn bản. (1,0 điểm)
Câu 13. Em có đồng ý với nhận định “Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào
sự biểu dương một công tác, một công trạng, một công trình” không? Vì sao? (0,5
điểm)
Câu 14. Nhận xét, đánh giá cách lựa chọn, khám phá đối tượng thực để phát hiện
vẻ đẹp của tự nhiên/cuộc sống trong tùy bút trên (0,5 điểm).
Câu 15. Tùy bút Tờ hoa giúp em lý giải được vẻ đẹp kỳ diệu nào của cuộc sống?
Từ đó, chia sẻ suy nghĩ về tác động của văn học đối với mỗi cá nhân. (1,0 điểm)
Phần II. Viết (4,0 điểm)
Hiện nay, mạng xã hội ngày càng phát triển, hàng loạt các trang mạng với hàng
trăm triệu người dùng như Facebook, Wechat, Weibo, Instagram,... đã cho thấy sự
thu hút cực kì mạnh của loại công cụ này. Đặc biệt, với giới trẻ, những thế hệ nắm
bắt tốt xu hướng, tinh nhạy trước những đổi mới của internet thì việc ham mê và sử
dụng mạng xã hội là một điều tất yếu, không ít trường hợp đã lâm vào tình trạng
nghiện internet. Em hãy viết bài văn nghị luận về hiện tượng trên.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Câu
Nội dung cần đạt
Điểm
Câu 1
D
Câu 2
C
Câu 3
D
Câu 4
D
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Câu 5
A
3,0 điểm
Câu 6
B
Câu 7
D
Câu 8
A
Câu 9
C
Câu 10
D
Câu 11
C
Câu 12
- Nhan đề Tờ hoa:
+ Nghĩa tường minh: nói về những trang văn có ý nghĩa, có
giá trị đẹp, giống như hoa trong cuộc sống - vốn biểu tượng
cho sự tinh túy của tự nhiên, đất trời.
+ Nghĩa biểu tượng: thể hiện tuyên ngôn nghệ thuật của
Nguyễn Tuân, gắn liền vẻ đẹp nghệ thuật với cuộc sống: Để
viết được những trang văn đầy sắc hương có ích cho đời
“như hoa” thì người nghệ sĩ phải luôn lao tâm, khổ tứ, nhiều
kh phải âm thầm, xót xa, khổ đau, phải được sống, được tận
mắt chứng kiến cuộc đờ rộng lớn cũng như có một gia tài
văn hóa sâu rộng, phong phú.
- Cảm hứng chủ đạo: Yêu thương, say mê trước vẻ đẹp đất
nước, con người mới sau Cách mạng tháng Tám. Trẫn trọng
quá trình lao động sáng tạo, hình thành vẻ đẹp trong tự
nhiên và đời sống. Những yêu thương, say mê đó hóa thành
tâm hồn với những dòng xúc cảm, rung động giàu liên
tưởng.
1,0 điểm
Câu 13
- Câu văn trên được hiểu là: Khi nhìn thấy thành quả/thành
tựu, ta cần nhận thấy, hiểu được quá trình gian nan, khó
0,5 điểm
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
nhọc, nhiều khi âm thầm, đau đớn, xót xa để đạt được nó.
- HS có thể nêu quan điểm cá nhân, dựa vào gợi ý sau:
+ Cần có sự đánh giá quá trình khi nhận xét một kết quả,
một thành tích.
+ Cần có sự ghi nhận, trân trọng công sức, lao động sáng
tạo thực sự của con người.
Câu 14
- Khả năng lựa chọn đối tượng thực gắn liền với mạch suy
tưởng, khảo cứu giá trị văn hóa lịch sử-địa lý.
- Phát hiện được mạch ngầm biểu tượng của sự vật, từ
phương diện/rung cảm thẩm mỹ.
0,5 điểm
Câu 15
- Bài học lý giải vẻ đẹp diệu kỳ của cuộc sống: Nhìn kết
quả/vẻ đẹp cuộc sống, con người từ ngọn nguồn hình thành,
quá trình tạo ra nó; khám phá vẻ đẹp ở chiều sâu văn hóa-
lịch sử, gắn với giá trị truyền thống dân tộc ...
- Tác động của văn học tới cá nhân: HS tự liên hệ những
thay đổi của bản thân sau khi hiểu những suy ngẫm, chiêm
nghiệm của tác giả từ đời sống tự nhiên, con người.
1,0 điểm
Phần II. Viết (4,0 điểm)
Câu
Nội dung
Điểm
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
Mở bài giới thiệu được vấn đề cần nghị luận.
Thân bài phân tích đưa ra nguyên nhân, biện pháp… thông qua
các lí lẽ và dẫn chứng…
Kết bài khẳng định lại vấn đề cần nghị luận.
0,25
điểm
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Viết bài văn nghị luận về
một vấn đề xã hội - hiện tượng nghiện Internet.
0,25
điểm
c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song
cần đảm bảo các ý sau:
1. Mở bài
Giới thiệu về vấn đề cần nghị luận: Bên cạnh những mặt tốt mà
Internet mang lại, việc lạm sử dụng nó sẽ dẫn đến hiện tượng
nghiêm trọng đó là hiện tượng nghiện Internet trong giới trẻ hiện
nay.
2. Thân bài
– Giải thích: Internet là gì? là một loại phương tiện công nghệ
của xã hội. Tại đó, con người có thể trao đổi thông tin, tìm kiếm
thông tin, dùng nó cho nhiều mục đích khác nhau.
– Thực trạng: – Nó trở thành một căn bệnh khó chữa của giới trẻ
hiện nay.
+ Quên ăn, quên ngủ, xao nhãng trong mọi công việc
+ Nhiều người trẻ hiện nay lâm vào tình trạng nghiện game.
– Nguyên nhân: Do con người không kiểm soát được bản thân,
lười học ham chơi.
– Hậu quả:
+ Bỏ học, dẫn đến nhiều hành vi xấu khác như cướp vặt, đánh
nhau…
+ Ảnh hưởng đến sức khỏe: gây cận thị, bệnh tự kỷ…
– Biện pháp: Cần định hướng đúng đắn cho giới trẻ về Internet
để tận dụng lợi ích của nó mang lại.
3. Kết bài
2,5
điểm
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
– Liên hệ: Bản thân cần biết sắp xếp thời gian học tập, giải trí
cho phù hợp…
– Mở rộng, kết luận lại vấn đề.
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp
tiếng Việt.
0,5
điểm
e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có
giọng điệu riêng.
0,5
điểm
Lưu ý: Chỉ ghi điểm tối đa khi thí sinh đáp ứng đủ các yêu cầu
về kiến thức và kĩ năng.
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85