ĐỀ 5
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN ……………………..
ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ I
Năm học: 20…. – 20…. ĐỀ SỐ 5
Môn: Ngữ văn – Lớp 8
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm) Tháng 6, ngày 24, sao sa.
Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may,
mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”
Hưng Đạo Vương trả lời:
- Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh
dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì
đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương
Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân
không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý
mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm,
đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua
tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên
vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế
trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như
gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng,
thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo
thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư
sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.
Quốc Tuấn là con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và
bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo
khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. An Sinh Vương
trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng, mang lòng hậm hực, tìm khắp những
người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:
- Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời
cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:
- Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại
vương há chẳng đủ phú quý hay sao? Chúng tôi xin chết già làm gia nô, chứ không
muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người ta làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi!
Quốc Tuấn cảm phục đển khóc, khen ngợi hai người.
Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:
- Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!
Quốc Tuấn ngẫm cho là phải.
Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng
Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:
- Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra.
Định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội
thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:
- Sau khi ta chết, đậy nắp quân tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp,
được tặng thái sư Thương phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ
ngày xưa. Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép
ông được quyền phong tước cho người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có tước
Hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho
một người nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp
lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không dám cho họ tước
lang tướng thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.
Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỉ Tín
chết thay để thoát Hán Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó.
Khi sắp mất, ông dặn con rằng:
- Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An
Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục.
Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại
chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất như thế đấy.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia
thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì
Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực
vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì
ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi
Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”, Quốc
Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”. Vì thế, đời Trùng Hưng lập
nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An
Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở
Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi
đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp dựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
(Trích Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là? A. Miêu tả B. Tự sự C. Biểu cảm D. Nghị luận
Câu 2. Vì sao Quốc Tuấn khi nghe những lời “giối giăng” của cha thì dấu kín
trong lòng, chỉ đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân, quyền nước đều do ở
mình ông mới đem lời cha dặn nói với gia nô Dã Tượng, Yết Kiêu?
A. Vì muốn thử lòng các gia nô dưới quyền mình.
B. Vì muốn thử lòng mình, và muốn làm vơi đi một chuyện không vui.
C. Vì muốn nghiệm lại chủ kiến của mình và tìm thêm người chia sẻ.
D. Vì muốn vững tin hơn vào điều mình không cho là phải.
Câu 3. Khi vua hỏi về kế đánh quân Nguyên, ngoài kế thanh dã, dùng đoản (binh)
chế trường (trận),… không dưới bốn lần, Hưng Đạo Đại Vương đặc biệt nhấn
mạnh vào một điều mà ông luôn xem là “thượng sách”. “Thượng sách” đó, nói một
cách đầy đủ mà khái quát nhất, là gì?
A. Phải thấy được sức mạnh đoàn kết toàn dân trong cả nước.
B. Vua tôi, tướng sĩ trong cả nước phải đồng tâm hiệp lực với nhau.
C. Vua tôi, tướng sĩ, binh lính phải thực lòng yêu thương nhau.
D. Phải thu phục lòng dân, tập hợp, phát huy bằng được sức mạnh, ý chí đoàn kết toàn dân.
Đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 8 Kết nối tri thức (đề 5)
1.9 K
1 K lượt tải
MUA NGAY ĐỂ XEM TOÀN BỘ TÀI LIỆU
CÁCH MUA:
- B1: Gửi phí vào TK:
0711000255837
- NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng Vietcombank (QR) - B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official ( nhấn vào đây ) để xác nhận thanh toán và tải tài liệu - giáo án
Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85
Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD, LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.
Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!
Thuộc bộ (mua theo bộ để tiết kiệm hơn):
- Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ 10 đề giữa kì 1 gồm đầy đủ ma trận và lời giải chi tiết môn Ngữ văn 8 Kết nối tri thức mới nhất nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ văn lớp 8.
- File word có lời giải chi tiết 100%.
- Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.
Đánh giá
4.6 / 5(1910 )5
4
3
2
1
Trọng Bình
Tài liệu hay
Giúp ích cho tôi rất nhiều
Duy Trần
Tài liệu chuẩn
Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)
TÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY MÔN Ngữ Văn
Xem thêmTÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY Lớp 8
Xem thêmTài liệu bộ mới nhất
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
ĐỀ 5
PHÒNG GD&ĐT HUYỆN ……………………..
ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ I
Năm học: 20…. – 20….
Môn: Ngữ văn – Lớp 8
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)
Tháng 6, ngày 24, sao sa.
Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may,
mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”
Hưng Đạo Vương trả lời:
- Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh
dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì
đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương
Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân
không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý
mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm,
đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua
tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên
vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế
trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như
gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng,
thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo
thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư
sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.
Quốc Tuấn là con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và
bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo
ĐỀ SỐ 5
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. An Sinh Vương
trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng, mang lòng hậm hực, tìm khắp những
người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối
giăng rằng:
- Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm
mắt được.
Quốc Tuấn ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời
cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:
- Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại
vương há chẳng đủ phú quý hay sao? Chúng tôi xin chết già làm gia nô, chứ không
muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người ta làm thịt dê là Duyệt
làm thầy mà thôi!
Quốc Tuấn cảm phục đển khóc, khen ngợi hai người.
Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:
- Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!
Quốc Tuấn ngẫm cho là phải.
Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng
Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:
- Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được
thiên hạ.
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra.
Định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội
thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
- Sau khi ta chết, đậy nắp quân tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng.
Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp,
được tặng thái sư Thương phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ
ngày xưa. Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép
ông được quyền phong tước cho người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có tước
Hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho
một người nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp
lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không dám cho họ tước
lang tướng thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.
Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỉ Tín
chết thay để thoát Hán Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy
đạo trung đó.
Khi sắp mất, ông dặn con rằng:
- Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An
Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm
sao cho mau mục.
Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại
chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi
mất như thế đấy.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia
thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì
Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực
vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì
ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi
Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”, Quốc
Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”. Vì thế, đời Trùng Hưng lập
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An
Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở
Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi
đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp dựng kiếm có tiếng kêu thì thế
nào cũng thắng lớn.
(Trích Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là?
A. Miêu tả
B. Tự sự
C. Biểu cảm
D. Nghị luận
Câu 2. Vì sao Quốc Tuấn khi nghe những lời “giối giăng” của cha thì dấu kín
trong lòng, chỉ đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân, quyền nước đều do ở
mình ông mới đem lời cha dặn nói với gia nô Dã Tượng, Yết Kiêu?
A. Vì muốn thử lòng các gia nô dưới quyền mình.
B. Vì muốn thử lòng mình, và muốn làm vơi đi một chuyện không vui.
C. Vì muốn nghiệm lại chủ kiến của mình và tìm thêm người chia sẻ.
D. Vì muốn vững tin hơn vào điều mình không cho là phải.
Câu 3. Khi vua hỏi về kế đánh quân Nguyên, ngoài kế thanh dã, dùng đoản (binh)
chế trường (trận),… không dưới bốn lần, Hưng Đạo Đại Vương đặc biệt nhấn
mạnh vào một điều mà ông luôn xem là “thượng sách”. “Thượng sách” đó, nói một
cách đầy đủ mà khái quát nhất, là gì?
A. Phải thấy được sức mạnh đoàn kết toàn dân trong cả nước.
B. Vua tôi, tướng sĩ trong cả nước phải đồng tâm hiệp lực với nhau.
C. Vua tôi, tướng sĩ, binh lính phải thực lòng yêu thương nhau.
D. Phải thu phục lòng dân, tập hợp, phát huy bằng được sức mạnh, ý chí đoàn kết
toàn dân.
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Câu 4. Nhận xét nào sau đây không đúng với Trần Quốc Tuấn:
A. Là một vị tướng anh hùng, đầy tài năng mưu lược.
B. Là một người cha nghiêm khắc giáo dục con cái.
C. Là một vị vua đặt tình nhà trên nợ nước.
D. Là một người cống hiến cho đời sau nhiều tác phẩm quân sự có giá trị.
Câu 5 (0,5 điểm) Xác định biện pháp tu từ trong đoạn: Nếu chỉ thấy quân nó kéo
đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không
cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ
vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng
được. Nêu hiệu quả nghệ thuật của biện pháp tu từ đó?
Câu 6 (0,5 điểm) Trong văn bản có nói đến binh pháp. Binh pháp là gì? Binh pháp
của Hưng Đạo Vương có điểm gì đáng chú ý?
Câu 7 (1,0 điểm) Em có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện trong văn bản?
Câu 8 (1,0 điểm) Em rút ra được diều gì qua lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với
vua về kế sách giữ nước?
Phần II. Viết (5,0 điểm)
Em hãy viết bài văn kể lại một chuyến đi (chuyến tham quan) mà mình ấn tượng
nhất.
HƯỚNG DẪN CHẤM
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm)
Câu
Nội dung cần đạt
Điểm
Câu 1
B. Tự sự
0,5 điểm
Câu 2
C. Vì muốn nghiệm lại chủ kiến của mình và tìm thêm người chia sẻ.
0,5 điểm
Câu 3
D. Phải thu phục lòng dân, tập hợp, phát huy bằng được sức mạnh, ý chí
đoàn kết toàn dân.
0,5 điểm
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Câu 4
C. Là một vị vua đặt tình nhà trên nợ nước.
0,5 điểm
Câu 5
Biện pháp tu từ: so sánh:
- quân nó kéo đến như lửa, như gió
- nó tiến chậm như các tằm ăn
- xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy
- có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được
� Hiệu quả nghệ thuật: hàng loạt so sánh làm cho cách diễn đạt gợi hình
ảnh cụ thể, qua đó thấy được tài năng trong cách dùng binh cũng như
thấy được tầm nhìn sâu rộng của nhà quân sự Hưng Đạo Vương khi ông
đề cao sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân sẽ chống giặc thành
công.
0,5 điểm
Câu 6
- Binh pháp là hệ thống tri thức về những vấn đề lí luận quân sự nói chung
và phương pháp tác chiến nói riêng.
- Binh pháp của Hưng Đạo Vương có điểm đáng chú ý là chống giặc phải
tuỳ thời mà tạo thế, phải vận dụng linh hoạt, không có một khuôn mẫu
nào nhất định.
0,5 điểm
Câu 7
Nghệ thuật kể chuyện:
- Cách kể về các nhân vật lịch sử không đơn điệu theo trình tự thời gian.
- Nhà viết sử không chỉ kể chuyện một cách phức hợp, với nhiều chiều
thời gian, mà còn khéo léo lồng vào câu chuyện những nhận xét sâu sắc
nhằm định hướng cho người đọc có những nhận xét, đánh giá thoả đáng.
- Cách kể chuyện trong đoạn trích vừa mạch lạc, khúc chiết vừa giải quyết
được những vấn đề then chốt về nhân vật đồng thời vẫn giữ được mạch
truyện tiếp nối logic. Chuyện vì thế trở nên sinh động, hấp dẫn. Nhân vật
lịch sử cũng vì thế mà được nổi bật chân dung.
1,0 điểm
Câu 8
- Nội dung lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua:
1,0 điểm
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
+ Nên tuỳ thời thế mà có sách lược phù hợp, binh pháp cần vận dụng linh
hoạt, không có khuôn mẫu nhất định.
+ Điều kiện quan trọng nhất để thắng giặc là toàn dân đoàn kết một lòng
+ Do đó phải giảm thuế khoá, bớt hình phạt, không phiền nhiễu dân,
chăm lo cho dân có đời sống sung túc,... đó chính là "thượng sách giữ
nước".
- Qua nội dung lời trình bày, người đọc nhận thấy Trần Quốc Tuấn không
những là vị tướng tài năng, mưu lược, có lòng trung quân mà còn biết
thương dân, trọng dân và biết lo cho dân.
Phần II. Viết (5,0 điểm)
Câu
Đáp án
Điểm
a. Đảm bảo cấu trúc bài văn kể lại một chuyến đi
Mở bài giới thiệu được chuyến đi. Thân bài triển khai được chi tiết chuyến đi.
Kết bài nêu được cảm nghĩ của bản thân về chuyến đi.
0,25 điểm
b. Xác định đúng yêu cầu của đề: Kể lại chuyến đi (tham quan một di tích lịch
sử, văn hóa).
0,25 điểm
c. Bài viết có thể triển khai theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo các
ý sau:
1. Mở bài
- Giới thiệu được chuyến đi: Lí do, mục đích của chuyến tham quan di tích lịch
sử, văn hóa.
2. Thân bài
- Kể diễn biến chuyến tham quan (trên đường đi, trình tự những điểm đến
thăm, những hoạt động chính trong chuyến đi,…)
- Nêu được ấn tượng về những đặc điểm nổi bật của di tích (phong cảnh, con
4,0 điểm
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
người, công trình kiến trúc,…).
3. Kết bài
Thể hiện được cảm xúc và suy nghĩ về chuyến đi.
d. Chính tả, ngữ pháp: Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
0,25 điểm
e. Sáng tạo: Diễn đạt sáng tạo, sinh động, giàu hình ảnh, có giọng điệu riêng.
0,25 điểm
Lưu ý: Chỉ ghi điểm tối đa khi thí sinh đáp ứng đủ các yêu cầu về kiến thức và
kĩ năng.