SỞ GD&ĐT TỈNH ĐỀ THI HỌC KÌ II
……………………..
Năm học: 2022 – 2023
Môn: Ngữ văn – Lớp 10 ĐỀ SỐ 3
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
MỘT BÀI THƠ CỦA NGUYỄN TRÃI: BA TIÊU
Trong 254 bài thơ “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, có một bài thơ chỉ 4
câu thôi mà tôi trải qua 24 năm, mới dám tự bảo mình rằng gọi là hiểu. Đó là bài “Ba tiêu”.
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem”
Người đời trước viết trên lụa: tàu lá chuối non kia màu xanh ngọc thạch, còn
cuộn lại như lụa cuốn, như bức thư quý báu trang nhã viết trên lụa bạch, đó là một
bức thư tình e ấp, vậy mời trang phong lưu là gió, hãy mở thư xem...
Câu thứ hai: “Đầy buồng lạ mầu thâu đêm”, ai có ngờ lại là câu khó hơn cả,
mà cũng “diệu” hơn cả. Bản Trần Văn Giáp phiên âm là “mầu” và chú thích: - “Cứ
theo chữ Nôm viết ở nguyên bản, cho nên phiên âm là “mầu”, nhưng đáng lẽ là
mùi mới đúng. Mùi thâu đêm là mùi hương suốt đêm, chú như vậy, thì “buồng lạ”
tức là buồng chuối chín thơm ngào ngạt. Bản Đào Duy Anh chú: - “Buồng lạ”: chỉ
buồng chuối, so với các quả cây khác thì cũng lạ. “Mầu thâu đêm”: chuối chín
thơm ngát suốt cả đêm. Hai lời chú thích đều hiểu buồng là buồng chuối. Và tôi
cũng hiểu như thế, chứ không có cách nào khác.
Tuy nhiên, những năm gần đây, tôi suy nghĩ lại, và bỗng nhận thấy một điều,
nhưng tôi thấy không tiện nói ra. Vì không tiện nói ra, cho nên tôi không dám dây
dưa đưa dẫn hai câu đầu. Bởi, nếu giới thiệu cả 4 câu, thì tôi bắt buộc phải góp ý
kiến rằng: đây là hai bài thơ chồng lên nhau, chứ không phải một bài, bởi hai câu
đầu nói tới “buồng lạ”, buồng chuối, hai câu sau thì nói tới lá chuối non. Mà khi
cây chuối đã trổ ra buồng, thậm chí buồng chuối chín, thì nó không còn có thể ra lá
non, thậm chí lá non cuốn lại, được nữa. Như vậy phải là hai cây chuối khác nhau
ở trong bài thơ, như vậy là hai bài thơ chắp vào nhau trong 4 câu, chứ không phải
một bài tứ tuyệt, nhất quán, nguyên khôi. Như vậy thì Ức Trai làm thơ như thế hay sao?
[…] Đến hôm nay, tôi rất cảm ơn người bạn của tôi, anh ấy bảo với tôi:
Trong thơ chữ Hán của Ức Trai, có bài “Lãnh noãn tịch”, có câu thơ: “Hồng lâu dạ
vĩnh giác xuân tư” nghĩa là: “Lầu hồng đêm thâu cảm thấy có một mùa xuân riêng
mình”, tức là thơ chữ Hán cùng với một tứ với thơ chữ Nôm “Đầy buồng lạ, mầu
thâu đêm” đó. Tôi bỗng “ồ” lên một tiếng và thấy mình bừng sáng hiểu vào sự
huyền diệu của cả bài thơ. Tôi không cần phải “phát hiện” hai bài thơ nào mâu
thuẫn nhau hết, mà đây chính là một bài thơ nguyên khôi, nhất quán, của Nguyễn
Trãi làm, tại vì tôi chưa hiểu nổi, nên mới thắc mắc. Trước hết, trong câu mở đầu:
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm”. Ta hẵng để ý: tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại
tốt thêm”? “Lại tốt thêm” thì có vẻ dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ
của câu chẳng qua theo đà, theo thế, theo thời, mà thêm tốt, còn “tốt lại thêm” tức
là: Vốn cái tốt đã là bản chất rồi. Nay từ lúc bén hơi xuân thì tốt thêm.
Hoá ra cái thần của bài thơ không ở hai câu 3, 4, một hình tượng, mà ở câu
2, một xúc cảm: “Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm”. Đầy phòng, đầy buồng khuê, là
một sự “lạ”, mầu đây, theo ý tôi, là nhiệm mầu, mầu nhiệm thâu đêm, đồng thời và
cũng cần hiểu mầu như ở trong “đất mầu”. Ôi! Nếu là thơ Ức Trai nói về sự rung
động đầu tiên của giai nhân vào buổi đương thời thì việc ấy có giảm gì uy tín của
người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi? Bao nhiêu nhà thơ lớn trước Nguyễn Trãi ở
Á Đông, ở trên thế giới đã nói và nói một cách trang nhã, sao lại muốn rằng
Nguyễn Trãi đừng nói, dù là nói một cách trang nhã? Sự thật, là Nguyễn Trãi đã
nói rồi, câu thơ chữ Hãn “dạ vĩnh giác xuân tư”, (đêm thâu cảm thấy một xuân
riêng) bênh vực cho câu thơ chữ Nôm “đầy buồng lạ mầu thâu đêm”, và chữ “lạ”
với chữ “mầu” làm cho câu thơ chữ Nôm còn dào dạt ngạt ngào hơn câu thơ chữ
Hán, đến nỗi đầy cả một buồng. Hơn năm trăm năm sau, hàng cháu chắt của nhà
thơ Ức Trai là nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) cũng có một tứ thơ gần với Ức
Trai, và đã gộp cả chữ “lạ” trong thơ chữ Nôm và chữ “xuân” trong thơ chữ Hán
của Ức Trai: “Chàng ơi, chàng ơi, sự lạ đêm qua - Mùa xuân tới, mà không ai biết cả”.
Nếu hiểu buồng là buồng chuối như tôi đã hiểu, và như hai nhà phiên âm
Trần Văn Giáp và Đào Duy Anh đã hiểu, thì bài thơ lại tách ra làm hai bài mâu
thuẫn nhau một cách vô lí - điều mà nhà thơ Ức Trai quyết không làm.
Và khi đã vào được chữ “diệu” của bài thơ, khi đã hiểu đây là mùa xuân
riêng xuất hiện, thì hai câu cuối đến dính liền một cách thoải mái vào hai câu trên.
Hiểu là một ngôi thứ ba, một “nhà văn” nào đó nói hộ tâm sự cho giai nhân, và mời
hộ gió mở bức thư lá chuối non thì cũng được, tuy nhiên, tưởng tượng một người
thứ ba ở bên ngoài đến làm mối lái trung gian mời hộ gió mở thư tình của lá, thì
vai trò của người mời hộ này cũng khá vô duyên, đã là thư tình thì chính người
viết, người cuộn người gửi lấy bằng cách này hay cách khác cho đối tượng của
mình đọc, cho nên tôi muốn hiểu cả bài tứ tuyệt là một ngôi thứ nhất, phía sau cây
ba tiêu là một giai nhân tự nói lấy cho mình, đầy phòng ngào ngạt thâu đêm, chẳng
lẽ lại người nào cũng ngoài phòng nói điều ấy, phải là người ở trong phòng tự nói:
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín”
bức thư tình của lá: em còn e ấp cuộn lại, còn kín, một cái ghen tuông phóng nhuỵ,
ngôi thứ hai là “gió”, là đối tượng: anh, người mà ta mong mỏi đang ở nơi đâu?
Gượng đây không phải là gượng gạo, mà gượng nhẹ, khẽ khàng:
“Gió nơi đâu gượng mở xem”
Từ lúc “Quốc âm thi tập” được phát hiện lại (1956) đến nay, một bài thơ
như “Ba tiêu” của Nguyễn Trãi đã trải 24 năm mới chịu gửi cái bí mật thân tình
mình cho người bạn đọc.
(Kỷ niệm sáu trăm năm ngày sinh Nguyễn Trãi, Xuân Diệu)
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào? Chỉ ra dấu hiệu nhận biết.
A. Văn bản truyện, kể về một người bạn
B. Văn bản nghị luận xã hội, bàn về cách đánh giá một tác phẩm thơ
C. Văn bản nghị luận văn học, đánh giá giá trị tác phẩm thơ
D. Văn bản kí, ghi lại hành trình nhận thức của tác giả
Câu 2. Thái độ của tác giả đối với ý kiến: Bản Đào Duy Anh chú: - “Buồng lạ”:
Chỉ buồng chuối, so với các quả cây khác thì cũng lạ. “Mầu thâu đêm”: Chuối chín
thơm ngát cả đêm như thế nào? A. Phủ nhận hoàn toàn
B. Ban đầu phủ nhận nhưng sau lại đồng tình
C. Không quan tâm mà chỉ điểm đến như lời dẫn
D. Ban đầu đồng ý nhưng sau lại không đồng tình
Câu 3. Vì sao, tác giả “thấy mình bừng sáng hiểu vào sự huyền diệu của cả bài thơ”?
A. Tôi không cần phải “phát hiện” hai bài thơ nào mâu thuẫn nhau hết
Đề thi cuối học kì 2 Ngữ Văn 10 Cánh diều có đáp án (Đề 3)
445
223 lượt tải
MUA NGAY ĐỂ XEM TOÀN BỘ TÀI LIỆU
CÁCH MUA:
- B1: Gửi phí vào TK:
0711000255837
- NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng Vietcombank (QR) - B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official ( nhấn vào đây ) để xác nhận thanh toán và tải tài liệu - giáo án
Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85
Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD, LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.
Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!
Thuộc bộ (mua theo bộ để tiết kiệm hơn):
- Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ 10 đề cuối học kì 2 môn Ngữ Văn 10 bộ Cánh diều mới nhất năm 2023 - 2024 nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ Văn lớp 10.
- File word có lời giải chi tiết 100%.
- Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.
Đánh giá
4.6 / 5(445 )5
4
3
2
1
Trọng Bình
Tài liệu hay
Giúp ích cho tôi rất nhiều
Duy Trần
Tài liệu chuẩn
Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)
TÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY MÔN Ngữ Văn
Xem thêmTÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY Lớp 10
Xem thêmTài liệu bộ mới nhất
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
SỞ GD&ĐT TỈNH
……………………..
ĐỀ THI HỌC KÌ II
Năm học: 2022 – 2023
Môn: Ngữ văn – Lớp 10
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:
MỘT BÀI THƠ CỦA NGUYỄN TRÃI: BA TIÊU
Trong 254 bài thơ “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, có một bài thơ chỉ 4
câu thôi mà tôi trải qua 24 năm, mới dám tự bảo mình rằng gọi là hiểu. Đó là
bài@“Ba tiêu”.
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nơi đâu gượng mở xem”
Người đời trước viết trên lụa: tàu lá chuối non kia màu xanh ngọc thạch, còn
cuộn lại như lụa cuốn, như bức thư quý báu trang nhã viết trên lụa bạch, đó là một
bức thư tình e ấp, vậy mời trang phong lưu là gió, hãy mở thư xem...
Câu thứ hai: “Đầy buồng lạ mầu thâu đêm”, ai có ngờ lại là câu khó hơn cả,
mà cũng “diệu” hơn cả. Bản Trần Văn Giáp phiên âm là “mầu” và chú thích: - “Cứ
theo chữ Nôm viết ở nguyên bản, cho nên phiên âm là “mầu”, nhưng đáng lẽ là
mùi mới đúng. Mùi thâu đêm là mùi hương suốt đêm, chú như vậy, thì “buồng lạ”
tức là buồng chuối chín thơm ngào ngạt. Bản Đào Duy Anh chú: - “Buồng lạ”: chỉ
buồng chuối, so với các quả cây khác thì cũng lạ. “Mầu thâu đêm”: chuối chín
thơm ngát suốt cả đêm. Hai lời chú thích đều hiểu buồng là buồng chuối. Và tôi
cũng hiểu như thế, chứ không có cách nào khác.
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
ĐỀ SỐ 3
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Tuy nhiên, những năm gần đây, tôi suy nghĩ lại, và bỗng nhận thấy một điều,
nhưng tôi thấy không tiện nói ra. Vì không tiện nói ra, cho nên tôi không dám dây
dưa đưa dẫn hai câu đầu. Bởi, nếu giới thiệu cả 4 câu, thì tôi bắt buộc phải góp ý
kiến rằng: đây là hai bài thơ chồng lên nhau, chứ không phải một bài, bởi hai câu
đầu nói tới “buồng lạ”, buồng chuối, hai câu sau thì nói tới lá chuối non. Mà khi
cây chuối đã trổ ra buồng, thậm chí buồng chuối chín, thì nó không còn có thể ra lá
non, thậm chí lá non cuốn lại, được nữa. Như vậy phải là hai cây chuối khác nhau
ở trong bài thơ, như vậy là hai bài thơ chắp vào nhau trong 4 câu, chứ không phải
một bài tứ tuyệt, nhất quán, nguyên khôi. Như vậy thì Ức Trai làm thơ như thế hay
sao?
[…] Đến hôm nay, tôi rất cảm ơn người bạn của tôi, anh ấy bảo với tôi:
Trong thơ chữ Hán của Ức Trai, có bài “Lãnh noãn tịch”, có câu thơ: “Hồng lâu dạ
vĩnh giác xuân tư” nghĩa là: “Lầu hồng đêm thâu cảm thấy có một mùa xuân riêng
mình”, tức là thơ chữ Hán cùng với một tứ với thơ chữ Nôm “Đầy buồng lạ, mầu
thâu đêm” đó. Tôi bỗng “ồ” lên một tiếng và thấy mình bừng sáng hiểu vào sự
huyền diệu của cả bài thơ. Tôi không cần phải “phát hiện” hai bài thơ nào mâu
thuẫn nhau hết, mà đây chính là một bài thơ nguyên khôi, nhất quán, của Nguyễn
Trãi làm, tại vì tôi chưa hiểu nổi, nên mới thắc mắc. Trước hết, trong câu mở đầu:
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm”. Ta hẵng để ý: tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại
tốt thêm”? “Lại tốt thêm” thì có vẻ dung tục, không đủ trân trọng đối với chủ từ
của câu chẳng qua theo đà, theo thế, theo thời, mà thêm tốt, còn “tốt lại thêm” tức
là: Vốn cái tốt đã là bản chất rồi. Nay từ lúc bén hơi xuân thì tốt thêm.
Hoá ra cái thần của bài thơ không ở hai câu 3, 4, một hình tượng, mà ở câu
2, một xúc cảm: “Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm”. Đầy phòng, đầy buồng khuê, là
một sự “lạ”, mầu đây, theo ý tôi, là nhiệm mầu, mầu nhiệm thâu đêm, đồng thời và
cũng cần hiểu mầu như ở trong “đất mầu”. Ôi! Nếu là thơ Ức Trai nói về sự rung
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
động đầu tiên của giai nhân vào buổi đương thời thì việc ấy có giảm gì uy tín của
người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi? Bao nhiêu nhà thơ lớn trước Nguyễn Trãi ở
Á Đông, ở trên thế giới đã nói và nói một cách trang nhã, sao lại muốn rằng
Nguyễn Trãi đừng nói, dù là nói một cách trang nhã? Sự thật, là Nguyễn Trãi đã
nói rồi, câu thơ chữ Hãn “dạ vĩnh giác xuân tư”, (đêm thâu cảm thấy một xuân
riêng) bênh vực cho câu thơ chữ Nôm “đầy buồng lạ mầu thâu đêm”, và chữ “lạ”
với chữ “mầu” làm cho câu thơ chữ Nôm còn dào dạt ngạt ngào hơn câu thơ chữ
Hán, đến nỗi đầy cả một buồng. Hơn năm trăm năm sau, hàng cháu chắt của nhà
thơ Ức Trai là nhà thơ Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) cũng có một tứ thơ gần với Ức
Trai, và đã gộp cả chữ “lạ” trong thơ chữ Nôm và chữ “xuân” trong thơ chữ Hán
của Ức Trai: “Chàng ơi, chàng ơi, sự lạ đêm qua - Mùa xuân tới, mà không ai biết
cả”.
Nếu hiểu buồng là buồng chuối như tôi đã hiểu, và như hai nhà phiên âm
Trần Văn Giáp và Đào Duy Anh đã hiểu, thì bài thơ lại tách ra làm hai bài mâu
thuẫn nhau một cách vô lí - điều mà nhà thơ Ức Trai quyết không làm.
Và khi đã vào được chữ “diệu” của bài thơ, khi đã hiểu đây là mùa xuân
riêng xuất hiện, thì hai câu cuối đến dính liền một cách thoải mái vào hai câu trên.
Hiểu là một ngôi thứ ba, một “nhà văn” nào đó nói hộ tâm sự cho giai nhân, và mời
hộ gió mở bức thư lá chuối non thì cũng được, tuy nhiên, tưởng tượng một người
thứ ba ở bên ngoài đến làm mối lái trung gian mời hộ gió mở thư tình của lá, thì
vai trò của người mời hộ này cũng khá vô duyên, đã là thư tình thì chính người
viết, người cuộn người gửi lấy bằng cách này hay cách khác cho đối tượng của
mình đọc, cho nên tôi muốn hiểu cả bài tứ tuyệt là một ngôi thứ nhất, phía sau cây
ba tiêu là một giai nhân tự nói lấy cho mình, đầy phòng ngào ngạt thâu đêm, chẳng
lẽ lại người nào cũng ngoài phòng nói điều ấy, phải là người ở trong phòng tự nói:
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
“Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
Tình thư một bức phong còn kín”
bức thư tình của lá: em còn e ấp cuộn lại, còn kín, một cái ghen tuông phóng nhuỵ,
ngôi thứ hai là “gió”, là đối tượng: anh, người mà ta mong mỏi đang ở nơi đâu?
Gượng đây không phải là gượng gạo, mà gượng nhẹ, khẽ khàng:
“Gió nơi đâu gượng mở xem”
Từ lúc@“Quốc âm thi tập”@được phát hiện lại (1956) đến nay, một bài thơ
như@“Ba tiêu”@của Nguyễn Trãi đã trải 24 năm mới chịu gửi cái bí mật thân tình
mình cho người bạn đọc.
(Kỷ niệm sáu trăm năm ngày sinh Nguyễn Trãi, Xuân Diệu)
@Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào? Chỉ ra dấu hiệu nhận biết.
A. Văn bản truyện, kể về một người bạn
B. Văn bản nghị luận xã hội, bàn về cách đánh giá một tác phẩm thơ
C. Văn bản nghị luận văn học, đánh giá giá trị tác phẩm thơ
D. Văn bản kí, ghi lại hành trình nhận thức của tác giả
Câu 2. Thái độ của tác giả đối với ý kiến: Bản Đào Duy Anh chú: - “Buồng lạ”:
Chỉ buồng chuối, so với các quả cây khác thì cũng lạ. “Mầu thâu đêm”: Chuối chín
thơm ngát cả đêm như thế nào?
A. Phủ nhận hoàn toàn
B. Ban đầu phủ nhận nhưng sau lại đồng tình
C. Không quan tâm mà chỉ điểm đến như lời dẫn
D. Ban đầu đồng ý nhưng sau lại không đồng tình
Câu 3. Vì sao, tác giả “thấy mình bừng sáng hiểu vào sự huyền diệu của cả bài
thơ”?
A. Tôi không cần phải “phát hiện” hai bài thơ nào mâu thuẫn nhau hết
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
B. “Ba tiêu” chính là một bài thơ nguyên khôi, nhất quán, của Nguyễn Trãi làm
C. Trước đây, tại vì tôi chưa hiểu nổi nên mới thắc mắc
D. Tất cả các ý kiến trên
Câu 4. Lập luận: Ta hẵng để ý: tại sao Nguyễn Trãi không viết “lại tốt thêm”? Lại
tốt thêm thì có vẻ dung tục, không đủ trân trọng… nhằm mục đích gì?
A. Có thể dùng “lại tốt thêm” thay thế cho “tốt lại thêm”
B. “tốt lại thêm” biểu đạt ý tuyệt vời nhất
C. Cách hiểu chính xác về “tốt lại thêm”
D. Có thể dùng từ khác thay thế cho “tốt lại thêm”
Câu 5. Dẫn chứng “Chàng ơi, chàng ơi, sự lạ đêm qua – Mùa xuân tới, mà không
ai biết cả” để làm sáng tỏ cho luận điểm nào sau đây?
A. Câu thơ “diệu” hơn cả
B. Sự huyền diệu của bài thơ
C. Thần của bài thơ: xúc cảm
D. Vẻ đẹp của toàn bài thơ
Câu 6. Dòng nào nói lên đặc điểm dẫn chứng trong văn bản trên?
A. Dẫn chứng trực tiếp
B. Dẫn chứng gián tiếp
C. Dẫn chứng thuộc bài thơ “Ba tiêu”, bài thơ khác và chú giải
D. Dẫn chứng phong phú, đa dạng (thơ và văn xuôi)
Câu 7. Văn bản “Một bài thơ của Nguyễn Trãi: Ba tiêu” phân tích sâu sắc nhất ý
nghĩa của câu thơ nào trong bài thơ tứ tuyệt đó?
A. Tự bén hơi xuân, tốt lại thêm
B. Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
C. Tình thư một bức phong còn kín
D. Gió nơi đâu gượng mở xem
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85
Đây là bản xem thử, vui lòng mua tài liệu để xem chi tiết (có lời giải)
Câu 8. Dòng nào không nói lên mục đích của văn bản “Một bài thơ của Nguyễn
Trãi: Ba tiêu”?
A. Một bài tứ tuyệt, nhất quán, nguyên khôi
B. Cái thần của bài thơ không ở hai câu 3, 4, một hình tượng, mà ở câu 2, một xúc
cảm: Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm
C. Bài thơ như “Ba tiêu” của Nguyễn Trãi đã trải qua 24 năm mới chịu gửi cái bí
mật thân tình cho bạn đọc
D. Yếu tố biểu cảm thể hiện cảm xúc của tác giả
Câu 9. Xác định, phân tích vai trò của một số yếu tố biểu cảm trong văn bản “Một
bài thơ hay của Nguyễn Trãi: Ba Tiêu”.
Câu 10. Em có đồng ý với nhận định của tác giả: Gượng đây không phải là gượng
gạo, mà gượng nhẹ, khẽ khàng: Gió nơi đâu gượng mở xem không? Vì sao?
Phần II. Viết (4,0 điểm)
Đọc bài thơ “Chốn quê” – Nguyễn Khuyến sau đây và viết bài luận phân tích, đánh
giá nội dung của bài thơ và tình cảm nhà thơ dành cho người nông dân ở quê
hương mình.
CHỐN QUÊ (LÀM RUỘNG)
Mấy năm làm ruộng vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.
Cần kiệm thế mà không khá nhỉ,
Bao giờ cho biết khỏi đường lo?
HƯỚNG DẪN CHẤM
Mọi thắc mắc vui lòng xin liên hệ hotline: 084 283 45 85