Bài tập Nói giảm nói tránh lớp 7 (có đáp án)

12 6 lượt tải
Lớp: Lớp 7
Môn: Ngữ Văn
Bộ sách: Kết nối tri thức với cuộc sống
Dạng: Chuyên đề
File: Word
Loại: Tài liệu lẻ
Số trang: 11 trang


CÁCH MUA:

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85


Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

  • Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu Bài tập Tiếng Việt Ngữ văn 7 Kết nối tri thức (cả năm) gồm 12 dạng bài tập tiếng việt nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo Ngữ văn 7.
  • File word có lời giải chi tiết 100%.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(12 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

Mô tả nội dung:


4. NÓI GIẢM, NÓI TRÁNH 1. Khái niệm
- Tên gọi khác: khiêm dụ, nói nhún.
- Nói giảm là phép tu từ dùng cách nói giảm nhẹ mức độ hoặc tính chất của sự vật, hiện
tượng để tránh gây ấn tượng không hay đối với người nghe hoặc để thể hiện sự khiêm
tốn, nhún nhường. Ví dụ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
 Đây là lời Thuý Kiều nói với Từ Hải tự ví thân phận mình thấp kém, trôi nổi như cỏ
nội hoa hèn, như bèo bọt rày đây mai đó.
- Nói giảm là phép tu từ ngược lại với khoa trương. 2.Cấu tạo
- Nói giảm thường được cấu tạo dựa trên ẩn dụ.
- Thường được thực hiện bằng các cách sau:
a. Sử dụng hiện tượng chuyển nghĩa thông qua các hình thức ẩn dụ hoặc hoán dụ. Ví dụ:
- Bác đã đi rồi sao Bác ơi
- Bác đã lên đường theo tổ tiên. (Tố Hữu)
b. Sử dụng các từ đồng nghĩa Hán Việt. Ví dụ:
- Chết: từ trần, tạ thế, hy sinh…
- Chôn xác: an tang, mai tang…
c. Phủ định từ trái nghĩa. Ví dụ:
- Xấu: chưa đẹp, không được đẹp cho lắm…
d. Tỉnh lược. Ví dụ:
Lão làm bộ đấy! Thật ra lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu:
lão vừa xin tôi một ít bả chó. (Nam Cao) 3. Phân loại
3.1. Nói giảm với đề tài tự nói về mình
(khiêm ngữ)
- Loại nói giảm này rất phổ biến trong giao tiếp trước đây của người Á Đông. Nhiều từ
ngữ trở thành công thức diễn đạt chung của xã hội (từ vựng hoá). Ví dụ: quả nhân 寡寡
(người ít đức tốt), theo ngu ý 寡寡 (ý của kẻ ngu dốt) của hạ thần, thiển ý (ý kiến nông cạn) của tôi...
Ví dụ: Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
 Thân lươn: thân phận bị vùi dập phẩm tiết, mất hết tự do của Thuý Kiều (như con
lươn sống trong bùn nhơ).
Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ghi chú: Đây là lời Vương ông nói với Mã Giám Sinh khi gửi gắm Kiều. Cát đằng: dây leo.
Tùng quân: cây tùng. Tầm: đơn vị đo chiều dài thời xưa, bằng 8 thước.
3.2. Nói giảm với đề tài về người khác
Con gái của anh vóc dáng cũng dễ nhìn đó chứ.
(Khẩu ngữ)
4. BÀI TẬP THỰC HÀNH VỀ “NÓI GIẢM, NÓI TRÁNH”
Bài 1
. Tìm biện pháp nói giảm nói tránh trong các câu sau?
1. Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ? (Ngô Tất Tố)
2. Nó (Rùa Vàng) đứng nổi trên mặt nước và nói: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân”. (Sự tích Hồ Gươm)
3. Rộng thương cỏ nội hoa hèn
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
4. Bác đã đi rồi sao Bác ơi (Tố Hữu)
5. Lão làm bộ đấy! Thật ra lão chỉ tẩm ngẩm thế, nhưng cũng ra phết chứ chả vừa đâu:
lão vừa xin tôi một ít bả chó. (Nam Cao)
6. Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
7. Con gái của anh vóc dáng cũng dễ nhìn đó chứ. (Khẩu ngữ)
8. Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta… (Nguyễn Khuyến)
9. Bác đã lên đường theo tổ thiên
Mác – Lênin, thế giới người hiền. (Tố Hữu) 10. Bỗng lòe chớp đỏ, Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ, Một dòng máu tươi! (Tố Hữu)
11. Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
12. Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành. (Quang Dũng)
13. Người nằm dưới đất ai ai đó,
Giang hồ mê chơi quên quê hương. (Tản Đà)
14. Cậu vàng đi đời rồi ông giáo ạ!
15. Nhưng nói ra làm gì nữa! Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt! lão đừng lo
gì cho cái vườn của lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. (Nam Cao)
16. Khuya rồi, mời ông bà đi nghỉ ạ.
17. Cháu bé đã bớt đi ngoài chưa bác?
18. Cậu để kiểu tóc này tớ nhìn chưa ưng ý lắm.
19. Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt
rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. (Nguyễn Tuân)
20. Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. (Nguyễn Du)
21. Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các
vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp
nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột. (Hồ Chí Minh, Di chúc)
22. Lượng con ông Độ đây mà…Rõ tội nghiệp, về đến nhà thì bố mẹ chẳng còn. (Hồ Phương, Thư nhà)
23. Bài thơ anh viết về ý tứ, hình ảnh thì được, nhưng tình cảm còn chưa đủ sâu.
24. Nói năng như thế là có phần chưa được thiện chí lắm.
Bài 2. Gạch dưới những từ ngữ thể hiện phép nói giảm:
Nhưng thần trộm nghĩ, làm cho dân được lợi thì không gì quan trọng hơn nghề nông;
mở mang dân trí thì không gì lớn hơn việc giáo hóa. Lại không thể nói công thương
không đủ để hưng lợi và mở mang trí tuệ! Thần trộm cho rằng: “Công” tất phải học
máy móc, việc chế tạo do đó mới có thể phát triển, “Thương” thì hàng hoá xuất nhập
khẩu phải được thông suốt, có thế việc buôn bán mới được mở mang. Thần trộm thấy về
công nghệ nước ta, thì nghề thủ công chưa được khéo, việc buôn bán thì hàng hóa xuất
ra nước ngoài bị cấm, cả công và thương đều chưa có thể mưu cầu lợi ích một cách
nhanh chóng. Vậy, triều đình phải dần dần hướng dẫn, lợi dụng cơ hội để mở rộng ra,


zalo Nhắn tin Zalo