Đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 11 Cánh diều (Đề 1)

155 78 lượt tải
Lớp: Lớp 11
Môn: Ngữ Văn
Bộ sách: Cánh diều
Dạng: Đề thi
File: Word
Loại: Tài liệu lẻ
Số trang: 8 trang


CÁCH MUA:

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 0842834585


Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

  • Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ 10 đề cuối kì 2 gồm đầy đủ ma trận và lời giải chi tiết môn Ngữ văn 11 Cánh diều mới nhất nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ văn lớp 11.
  • File word có lời giải chi tiết 100%.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(155 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

Mô tả nội dung:


SỞ GD&ĐT TỈNH
ĐỀ THI CUỐI HỌC KÌ II
……………………..
Năm học: 2023 – 2024
Môn: Ngữ văn – Lớp 11 ĐỀ SỐ 1
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi bên dưới: Tờ hoa Nguyễn Tuân
Tại một công trường làm đường Tây Bắc, 1966
Tôi nhìn ra cái tàu lăn nghiến đá mặt đường mới, nhìn ra những kíp thợ xây
dựng mở đường, nhìn ra một tổ ong của anh chị em làm đường vừa mang được ong
chúa về. Cửa sổ buồng tôi viết, lúc nào cũng nhộn nhịp cánh tay người và những
cánh ong quen dần với tổ mới. Ong bay trên trang sổ tay tôi. Ong tua tròn trên
trang giấy chữ nhật trắng, như là tàu bay đảo nhiều vòng, chờ lệnh hạ cánh xuống.
Buồng bên có người bị ong đốt. Bởi vì người đó hoảng hốt vừa giết con ong một
cách không cần thiết, và ngửi thấy mùi máu, bọn ong cùng tổ xông tới đốt. Rồi ong
cũng lăn ra chết, linh hồn xuất theo luôn với nọc đốt. Con ong bé cũng như con voi
to, vốn tính lành nhưng khiêu khích chúng thì chúng đánh lại ngay, dẫu rằng có
phải lấy bổn mạng ra mà trả lời. Anh cán bộ địa chất liền cho tôi mượn một số tạp
chí khoa học có mấy trang về nuôi ong. Giờ tôi mới biết rằng đó là một thế giới
đầy sinh thú. Đời sống con ong để lại cho người đọc nó là một bài học về tính kiên
nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo và sáng tạo. Người ta đã đánh dấu con ong,
theo dõi nó, và thấy rằng cái giọt mật làm ra đó, là kết quả của 2.700.000 chuyến
(bay) đi, đi từ tổ nó đến khắp các nơi có hoa trong vùng. Và trong nửa lít mật ong
đóng chai, phân chất ra được 5 vạn thứ hoa. Tính ra thành bước chân người thì
tổng cộng đường bay của con ong đó là 8.000.000 cây số.


Giữa rừng Tây Bắc đầy hoa, đầy bướm, đầy ong, cái tôi thấy say say trong
chính mình là mặc dầu không được một chuyến đi bằng một đời ong, mình cũng là
một con sinh vật đang nung một thứ gì. Sự tích lũy ở mình cũng ngày càng có giọt
ra mà phần nào đem thơm thảo vào sự sống. Đối hoa xuân, lắng ong mật mà thêm
ngẫm tới đàn bướm tốt mà chấp chới bay, lộng lẫy những sắc phấn của sáo ngữ ồn
ào. Bước phù phiếm cũng bay vào hoa, nhưng cặp cánh hào nhoáng chẳng để lại
gì. Từ ngày lịch sử tiến hóa loài người, chưa ai nói đến mật bướm.
Người ta hay nhắc đến mang nặng đẻ đau. Có những quá trình không phải là
hoài thai, không đẻ gì (theo nghĩa hẹp và theo nghĩa đen sinh học) nhưng rất khổ
đau và nặng nhọc đèo bòng. Ngọc trai nguyên chỉ là một hạt cát, một hạt bụi biển
xâm lăng vào vỏ trai, lòng trai. Cái bụi bặm khách quan nơi rốn bể lẻn vào cửa trai.
Trai xót lòng. Máu trai liền tiết ra một thứ nước rãi bọc lấy cái hạt buốt sắc. Có
những cơ thể trai đã chết ngay vì hạt cát từ đầu bên ngoài gieo vào giữa lòng mình
(và vì trai chết nên cát bụi kia vẫn chỉ là hạt cát). Nhưng có những cơ thể trai vẫn
sống, sống lấy máu, lấy rãi mình ra mà bao phủ lấy cái hạt đau xót. Tới một thời
gian nào đó, hạt cát khối tình con, cộng với nước mắt hạch trai đã trở thành lõi
sáng của của một hạt ngọc tròn trặn ánh ngời.
Buổi ban đầu vào nghề viết cách đây vài chục năm, khi nhìn chuỗi ngọc trên
cổ người “con hát” một thời Thăng Long tôi mới chỉ liên hệ nhân cát ngọc với máy
bụi cát kiếp người nơi thập điều Kinh Thánh. Cho tới gần đây tôi mới biết rõ thân
thể của ngọc trai. Biết nhìn nó không phải chỉ ở chặng thành tựu chót cùng nơi cổ
nơi ngón con người ta, mà là nhìn thấy được nó ở một quá trình lâu dài, đầu kia
quá trình là một vết thương lòng và đầu này là quá trình là một niềm vui. Đầu kia
quá trình là một cơn giận dữ tự vệ, đầu này quá trình là một giọt tài nguyên Tổ quốc ta bao la cát bãi.


Tôi đã lấy cách nhìn hạt ngọc mà nhìn vào sự biểu dương một công tác, một
công trạng, một công trình. Cũng bằng cái cách đó mà hiểu được bước sinh trưởng
của một đoá hoa thơm, trước khi nó được làm cái nụ đầu thai vào vườn người.
Nhìn ngọn hoa sáng chói công khai giữa bầu giời mà không khỏi không bận lòng
vì lũ rễ cái, rễ con trong bóng tối lòng đất kín: rễ trong kia chỉ liên lạc được với
hoa ngoài đây bằng con đường nhựa đắng duy nhất của ruột mình. Nhìn bông hoa
nở tập kết nơi đất Bắc (1963) càng thấy bồi hồi vì cái rễ máu mình đang thọc sâu
rừng Tây Nguyên, rừng U Minh, thọc sâu và đội lên cả gạch đá phố Sài Gòn.
(Trích Tờ hoa, Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập 2), NXB Văn học, 1998, trang 5-7).
Câu 1. Dòng nào sau đây không nói lên đặc điểm của văn ban Tờ hoa?
A. Chất trữ tình; chất khảo cứu
B. Chất trữ tình; chất truyện
C. Chất trữ tình; hồi ức/ hồi tưởng
D. Dựa trên tiêu chí về đề tài
Câu 2. Yếu tố tự sự và vai trò của chúng trong văn bản Tờ hoa là:
A. Cốt truyện, sự việc, nhân vật
B. Các sự việc mà tác giả đã trải qua
C. Câu chuyện/ các sự việc đời sống có liên quan đến mạch cảm xúc, liên tưởng và suy ngẫm của tác giả
D. Câu chuyện/các sự việc đời sống khơi gợi mạch cảm xúc, tình cảm của tác giả.
Câu 3. Những số liệu trong đoạn văn: Từ “Người ta… của 2.700.000 chuyến (bay)
đi…đến là 8.000.000 cây số” nhằm thể hiện suy ngẫm gì của người viết:
A. Dòng cảm xúc trước con người/cuộc sống.
B. Mạch liên tưởng, suy tư trước sự việc, con người.
C. Tình huống nhận thức.
D. Bài học về tính kiên nhẫn, cần lao, về tích lũy, về chế tạo và sáng tạo.


Câu 4. Mạch gắn kết câu chuyện về con ong, về nghề văn và cách tạo ra ngọc trai
thể hiện suy ngẫm độc đáo nào của tác giả?
A. Hành trình gian nan để tạo ra cái Đẹp trong cuộc đời.
B. Quá nhìn đạt thành tựu, kết quả trong cuộc sống.
C. Sự tương đồng/khác biệt giữa vẻ đẹp tự nhiên và sáng tạo nghệ thuật.
D. Bất kỳ vẻ đẹp nào trong đời sống cũng bắt nguồn từ sự kiên nhẫn và khổ đau.
Câu 5. Qua mạch liên tưởng về con ong và sự hình thành ngọc trai, tác giả đã phát
hiện những vẻ đẹp nào của cuộc sống?
A. Vẻ đẹp của thế giới tự nhiên muốn màu.
B. Vẻ đẹp văn hóa, lịch sử, địa lý.
C. Quá trình sáng tạo, lao động trong cuộc sống.
D. Vẻ đẹp của sự kiên nhẫn, sáng tạo, khổ đau âm thầm.
Câu 6. Dòng nào không nêu lên đặc điểm cái Tôi tác giả trong tùy bút Tờ hoa?
A. Mong muốn, khao khát khám phá những vùng đất mới của Tổ Quốc.
B. Ý thức với nghề, mong muốn thức tỉnh tâm linh con người về cái Đẹp.
C. Tự tin, tự hào với vẻ đẹp con người, dân tộc thời kỳ mới.
D. Say mê, khao khát khám phá cái Đẹp.
Câu 7. Mục đích của tác giả trong tùy bút Tờ hoa:
A. Lý giải hành trình gian nan, vất vả để tạo vẻ đẹp cuộc sống.
B. Ca ngợi vẻ đẹp đất nước, con người bước vào thời kỳ xây dựng mới.
C. Khám phá quy luật hình thành cái Đẹp, bộc lộ niềm tin yêu, tự hào về con
người, đất nước thời kỳ mới.
D. Nêu tuyên ngôn sáng tạo nghệ thuật của nhà văn.
Câu 8. Bức thông điệp được gửi gắm qua tùy bút Tờ hoa là gì?
A. Ca ngợi một dân tộc yêu cái Đẹp, sống rất đẹp.
B. Trân trọng lĩnh vực nghệ thuật – nơi sáng tạo ra cái Đẹp chân chính.


zalo Nhắn tin Zalo