Đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 11 Cánh diều (Đề 4)

144 72 lượt tải
Lớp: Lớp 11
Môn: Ngữ Văn
Bộ sách: Cánh diều
Dạng: Đề thi
File: Word
Loại: Tài liệu lẻ
Số trang: 9 trang


CÁCH MUA:

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 0842834585


Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

  • Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ 10 đề cuối kì 2 gồm đầy đủ ma trận và lời giải chi tiết môn Ngữ văn 11 Cánh diều mới nhất nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ văn lớp 11.
  • File word có lời giải chi tiết 100%.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(144 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

Mô tả nội dung:


SỞ GD&ĐT TỈNH
ĐỀ THI CUỐI HỌC KÌ II
……………………..
Năm học: 2023 – 2024
Môn: Ngữ văn – Lớp 11 ĐỀ SỐ 4
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (6,0 điểm)
Đọc văn bản và trả lời các câu hỏi bên dưới:
Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh
(Người mẹ cầm súng – Nguyễn Thi)
Tóm tắt tác phẩm Người mẹ cầm súng
Truyện viết về cuộc đời và gương chiến đấu của chị Nguyễn Thị Út Tịch,
anh hùng lực lượng vũ trang tỉnh Trà Vinh trong kháng chiến chống Mỹ. Từ một cô
bé nghèo đi ở đợ, chị đã được cách mạng giác ngộ và trưởng thành, trở thành một
chiến sĩ du kích dày dạn kinh nghiệm cùng đồng đội liên tiếp lập nhiều chiến công.
Lý tưởng cách mạng cũng như quyết tâm diệt ngoại xâm của người mẹ năm con
cầm súng này được thể hiện qua câu nói giản dị mà khẳng khái: “Còn cái lai quần cũng đánh”
Đoạn trích sau đây nằm ở phần cuối tác phẩm.
Thế là Út đã là mẹ của năm đứa con. Việc nhà kéo níu hơn. Vừa làm việc,
chị vừa phải trông chừng từng lúc bóng nắng ngoài giọt. Từ Cầu Kè, những ấp
chiến lược giặc lập ra năm ngoái theo vết dầu loang đã bị chặn lại. Bấy giờ là lúc ta
tấn công. Cái kế hoạch Xta-lây-Tay-lo của giặc ở Tam Ngãi càng rạn nứt thì công
việc của người mẹ càng bận rộn và đầy hấp dẫn. Sanh chưa đầy tháng, Út lại đi
công tác. Đi không nổi, con Bé bơi xuồng chở mẹ đi. Để tránh mắt giặc, Út trùm
khăn kín mặt. Thường là lúc ra đi hầu như chỉ để ra đáy mua cá về chợ bán, nhưng
khi về chị lại có thêm dăm chục đạn ở trong xuống. Cũng không cần phải giấu
giếm khi qua bót giặc vì chính những cái bót ấy cho chị đạn. Đó là những buổi gặp
gỡ kỳ lạ. Những tên lính mà Út và đội du kích đã từng bắt sống trong các trận


trước, bây giờ lại trở ra đi lính. Họ nhìn ra mặt Út, tưởng như bị bắt tới nơi, nhưng
qua lời chị và nhất là nhớ cái ơn cứu sống của chị năm trước, họ lại cho chị đạn.
Rồi dần dần họ trở thành những cơ sở của chị, hăng hái và trung thành.
Chiều, Út chạy vô, mọi người đã chuẩn bị xong xuôi. Một chút nữa là hụt đi.
Mừng quá! Chỉ tại mình dốt. Anh em cũng muốn cho Út ở nhà, vì chị mới sanh,
nhưng chị không đi thì rất khó móc cơ sở. Lúc sắp lên đường, anh Mười ở tỉnh nói
với Út: Chị về cho thằng nhỏ bú rồi trở ra.
Hồi nãy vì vội, Út chưa cho bú thật. Nhưng về thì trễ. Chị nói:
– Ở nhà có con Bé con tôi nó quấy bột rồi.
– Chị cứ về cho cháu bú. Anh em chờ.
Út bơi xuồng về. Chị chọc cho con dậy bú. Con bú no, chị chọc lét cho nó
cười, rồi hối hả đi.Trời mưa như trút nước. Nửa đêm hôm đó, anh Tịch và Út bò
vào móc cơ sở, mở cửa rào dẫn một cánh đột vô. Vợ chồng Út lại thu được ba cây
súng và rổ lựu đạn hôm qua. Bộ đội tràn vô khắp ấp, lùng bắt ác ôn, rượt bọn lính
chạy, thu thêm một số súng. Suốt đêm, Út đi lay từng cây cọc sắt, tìm lựu đạn gài
để đồng bào yên tâm phá rào.
Sáng hôm sau, những người đàn bà đi chợ Cầu Kè ngang qua ấp chiến lược
Chông Nô 2, thấy một người phụ nữ đầu đội nón nhựa chiến lợi phẩm, tay cầm
súng, lá cây giắt đầy mình, miệng ăn trầu đỏ tươi, đứng gác trong công sự đầu ấp.
Hình ảnh ấy của Út được các bà truyền đi khắp xã cùng với tin cái ấp chiến lược
kiên cố, ác ôn nhất Cầu Kè bị phá banh. Út đứng như vậy, dưới trời mưa từ ba giờ
khuya tới sáng. Những tên thanh niên chiến đấu, sáng sớm tưởng ta rút, mò về, bất
thần bị Út bắt giơ tay. Và cứ trông chừng hắn ta chụp tay vào lưng chỗ nào là y như
chỗ đó có lựu đạn. Lúc gần rút về, một tên ác ôn chọi Út một trái lựu đạn. Trong
lúc hoảng hốt, nó không rút chốt. Út nhanh mắt chụp lấy. Chị chưa kịp chọi lại nó
thì anh em đã nổ cho nó một phát vào giữa ngực. Hôm đó, Út thu được một đống


lựu đạn đem chất đầy vọng gác. Về nhà, trong buổi liên hoan mừng chiến thắng,
anh Mười ở tỉnh ôm thằng nhỏ của Út giơ ra giữa đám đông, nói:
– Cháu à, má cháu bỏ cháu cả đêm, nhờ bác la má cháu mới về cho cháu bú đó.
Sau tiếng cười rộ lên, mọi người đều im bặt. Tất cả đều hướng về phía mẹ con
Út. Bây giờ, ngồi đây, chị đang dịu dàng ve vuốt tóc con, nhưng sao hồi khuya, lúc
xông vào ổ địch, trông chị gan lì, khác hẳn. Anh em chuyền tay nhau thằng nhỏ và cùng hôn nó.
[…] – Tôi tính vầy. Hồi cưới nhau tôi đã hứa với chú Chín Luông bận bịu đến
mấy cũng không được để chồng mất công tác, bây giờ tôi cũng phải giữ y vậy. Anh
lỡ về đây rồi thì vui cho thỏa mãn với con rồi đi, vậy thôi.
Sáng hôm sau, anh Tịch đi sớm. út cũng chuẩn bị súng đạn đi công tác, tiện và
thương thể đi hỏi giá dưa ở ngoài sông. Chị em con Bé đã dậy, đang đùa giỡn nhí
nhố ở trong mùng. Anh Tịch đi, nửa bụng thương vợ, nửa bụng thương con, nhiều
nhất là cái câu vợ nói: Anh đi cho gấp, đừng để anh em trông, rán làm sao vừa rõ
mặt người là phải qua hết ven đồng.
Nhân dân Tam Ngãi cũng có một thói quen. Dù ở Ngãi Nhứt, Ngọc Hồ nhiều
vườn hay Bung Lớn nhiều lúa, dù là bà con người Kinh hay người Khơ-me, dù là
các mę chiến sĩ hay các cô gái trong đội văn nghệ, tất cả đều làm một việc giống
nhau: giúp đỡ gia đình Út. Nếu thấy chị em con Bé đi một mình thì người ta hiểu
rằng cha mẹ chúng đang đi đánh giặc. Và nếu lúc đó có pháo hoặc máy bay bắn thì
bất cứ ai cũng có thể ra kéo chúng xuống hầm mình. Còn gặp bữa ăn thì khỏi nói,
ai cũng cảm thấy có bổn phận ôm chúng vào nhà, cho ngồi vào mâm, và tìm mọi
cách cho chúng thấy ở đây cũng như ở nhà chúng vậy, Út đi ra trận đã bớt phải lo
con. Sau khi, tôi đi đánh giặc được Mặt trận thương, cô bác thương nên cứ đánh
hoài. Bây giờ trên cho làm xã đội phó tôi cũng đánh hoài. Út vác cạc-bin xuống
ngồi gốc cây bang, mấy mẹ, mấy chị ở Láng Sắc, Trà Cú đeo dính chung quanh.


Không ai biết người mẹ nghèo năm con nhỏ làm cách nào mà vẫn còn cầm súng
được. Út sung sướng đến chảy nước mắt, trả lời lúng túng:
– Nói đến công bao bọc thì con nặng tội với cô bác hết sức, không biết chừng
nào con bù đắp lại cô bác cho đầy đủ.
Bà Sáu Hò ngồi cạnh Út, nói: – Không phải bây ăn của tao rồi bây gánh trả tạo
là được. Bây đánh giặc cho giỏi là bây bồi bổ lại cho tạo được rồi.
Như mọi người dân Tam Ngãi khác, đêm ấy bà Sáu Hò cũng cảm thấy vinh dự.
Niềm vinh dự của những người đã biết sống xứng đáng trên miếng đất còn nghèo khổ mà đầy giặc này. ……..
Nguyễn Thị tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca (bút danh khác là Nguyễn Ngọc
Tấn), quê ở xã Quần Phương Thượng (nay là xã Hải Anh), huyện Hải Hậu, tỉnh
Nam Định. Sáng tác của Nguyễn Thị thuộc nhiều thể loại như thơ, bút ký, truyện ngắn, tiểu thuyết,…
Câu 1. Dòng nào nói lên đặc điểm thể loại của văn bản Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh?
A. Truyện dài viết về cuộc đời, số phận nhân vật.
B. Truyện ngắn, viết về một lát cắt trong cuộc đời của nhân vật.
C. Truyện kí viết về gương người thật, việc thật – phụ nữ yêu nước.
D. Trích đoạn tiểu thuyết, phản ánh hiện thực rộng lớn, nhiều nhân vật.
Câu 2. Dòng nào nói lên đề tài của văn bản Nó cũng đánh giặc phải không mấy anh? A. Nam Bộ B. Phụ nữ C. Anh hùng D. Yêu nước


zalo Nhắn tin Zalo