Đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo (Đề 1)

673 337 lượt tải
Lớp: Lớp 8
Môn: Ngữ Văn
Dạng: Đề thi
File: Word
Loại: Tài liệu lẻ
Số trang: 8 trang


CÁCH MUA:

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 0842834585


Đề thi được cập nhật thêm mới liên tục hàng năm sau mỗi kì thi trên cả nước. Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

  • 1

    Bộ 10 đề thi cuối kì 2 Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo có đáp án

    Đề thi được cập nhật thêm mới liên tục hàng năm sau mỗi kì thi trên cả nước. Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

    Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

    Word 108 7.4 K 3.7 K lượt tải
    150.000 ₫
    150.000 ₫
  • Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ 10 đề cuối kì 2 gồm đầy đủ ma trận và lời giải chi tiết môn Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo mới nhất năm 2024 nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ văn lớp 8.
  • File word có lời giải chi tiết 100%.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(673 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

Mô tả nội dung:



PHÒNG GD&ĐT HUYỆN
ĐỀ THI CUỐI HỌC KÌ II
……………………..
Năm học: 2023 – 2024
Môn: Ngữ văn – Lớp 8 ĐỀ SỐ 1
(Thời gian làm bài: 90 phút)
Phần I. Đọc hiểu (5,0 điểm) Tháng 6 , ngày 24, sao sa.
Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng:“Nếu có điều chẳng
may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”
Hưng Đạo Vương trả lời:
- Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế
thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh
thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng người tài giỏi, đất phương
Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân
không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý
mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm,
đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua
tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên
vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế
trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như
gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng,
thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo
thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư
sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.
Quốc Tuấn là con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem
cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung
mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. An Sinh
Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng, mang lòng hậm hực, tìm


khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:
- Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông
đem lời cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:
- Làm kế ấy tuy được phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại
vương há chẳng đủ phú quý hay sao? Chúng tôi xin chết già làm gia nô, chứ không
muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người ta làm thịt dê là Duyệt làm thầy mà thôi!
Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.
Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:
- Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào? Hưng Vũ Vương trả lời:
- Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!
Quốc Tuấn ngẫm cho là phải.
Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng
Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:
- Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra.
Định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu
tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương:
- Sau khi ta chết, đậy nắp quân tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng.


Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn
Kiếp, được tặng thái sư Thương phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn, ví ông với Thượng
phụ ngày xưa. Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho
phép ông được quyền phong tước cho người khác, từ Minh tự trở xuống, chỉ có
tước Hầu thì phong trước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước
cho một người nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra
cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không dám cho họ
tước lang tướng thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.
Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỉ
Tín chết thay để thoát Hán Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó.
Khi sắp mất, ông dặn con rằng:
- Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn
An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục.
Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp
đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới
việc sau khi mất như thế đấy.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là
gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì
Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực
vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì
ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi
Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng:”Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”, Quốc


Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”. Vì thế, đời Trùng Hưng lập
nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An
Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở
Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi
đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp dựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
(Trích Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là? A. Miêu tả B. Tự sự C. Biểu cảm D. Nghị luận
Câu 2. Vì sao Quốc Tuấn khi nghe những lời “giối giăng” của cha thì dấu kín
trong lòng, chỉ đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân, quyền nước đều do ở
mình ông mới đem lời cha dặn nói với gia nô Dã Tượng, Yết Kiêu?
A. Vì muốn thử lòng các gia nô dưới quyền mình.
B. Vì muốn thử lòng mình, và muốn làm vơi đi một chuyện không vui.
C. Vì muốn nghiệm lại chủ kiến của mình và tìm thêm người chia sẻ.
D. Vì muốn vững tin hơn vào điều mình không cho là phải.
Câu 3. Khi vua hỏi về kế đánh quân Nguyên, ngoài kế thanh dã, dùng đoản (binh)
chế trường (trận),… không dưới bốn lần, Hưng Đạo Đại Vương đặc biệt nhấn
mạnh vào một điều mà ông luôn xem là “thượng sách”. “Thượng sách” đó, nói một
cách đầy đủ mà khái quát nhất, là gì?
A. Phải thấy được sức mạnh đoàn kết toàn dân trong cả nước.
B. Vua tôi, tướng sĩ trong cả nước phải đồng tâm hiệp lực với nhau.
C. Vua tôi, tướng sĩ, binh lính phải thực lòng yêu thương nhau.


zalo Nhắn tin Zalo