Chuyên đề ôn thi ĐGNL ĐHQG TP.HCM VACT phần Sử dụng ngôn ngữ - Tiếng Việt

3 2 lượt tải
Lớp: ĐGNL-ĐGTD
Môn: VACT - ĐHQG TP.HCM
Dạng: Chuyên đề
File:
Loại: Tài liệu lẻ


CÁCH MUA:

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85


Đề thi được cập nhật thêm mới liên tục hàng năm sau mỗi kì thi trên cả nước. Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu Tài liệu Chuyên đề ôn thi ĐGNL ĐHQG TP.HCM VACT phần Sử dụng ngôn ngữ - Tiếng Việt của bài thi VACT với đầy đủ lý thuyết, các dạng bài & bài tập đa dạng từ cơ bản đến nâng cao có lời giải chi tiết giúp Giáo viên và học sinh có thêm tài liệu ôn thi ĐGNL Đại học Quốc gia Tp.HCM.

  • File word có lời giải chi tiết 100%.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(3 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

TÀI LIỆU BỘ BÁN CHẠY MÔN VACT - ĐHQG TP.HCM

Xem thêm

Mô tả nội dung:


CHUYÊN ĐỀ 1. THƠ A. LÍ THUYẾT
I. ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI 1. ĐẶC TRƯNG CHUNG
Thơ là hình thức tổ chức ngôn từ đặc biệt, tuân theo một mô hình thi luật hoặc nhịp
điệu nhất định. Mô hình này làm nổi bật mối quan hệ giữa âm điệu và ý nghĩa của ngôn
từ thơ ca. Với hình thức ngôn từ như thế, thơ có khả năng diễn tả được những tình cảm
mãnh liệt hoặc những ấn tượng, xúc động tinh tế của con người trước thế giới.
Thơ trữ tình là loại tác phẩm thơ thường có dung lượng nhỏ, thể hiện trực tiếp cảm xúc,
tâm trạng của nhân vật trữ tình. Thơ trữ tình có những đặc trưng cơ bản như sau:
Nhân vật trữ tình (còn gọi là chủ thể trữ tình) là người trực tiếp bộc lộ rung động và
tình cảm trong bài thơ trước một khung cảnh hoặc sự tình nào đó. Nhân vật trữ tình có
mối liên hệ mật thiết với tác giả song không hoàn toàn đồng nhất với tác giả.
Hình ảnh thơ là các sự vật, hiện tượng, trạng thái đời sống được tái tạo một cách cụ
thể, sống động bằng ngôn từ, khơi dậy cảm giác (đặc biệt là những ấn tượng thị giác) cũng
như gợi ra những ý nghĩa tinh thần nhất định đối với người đọc.
Vần thơ là sự cộng hưởng, hoà âm theo quy luật giữa một số âm tiết trong hay cuối
dòng thơ. Vần thơ có chức năng liên kết các dòng thơ và góp phần tạo nên nhịp điệu, nhạc
điệu cũng như giọng điệu của bài thơ.
Nhịp điệu là những điểm ngắt hay ngừng theo chu kì nhất định trên văn bản do tác
giả chủ động bố trí. Nhịp điệu chứa đựng sự lặp lại có biến đổi của các yếu tố ngôn ngữ
và hình ảnh nhằm gợi ra cảm giác về sự vận động của sự sống và thể hiện cảm nhận thẩm mĩ về thế giới.
Nhạc điệu là cách tổ chức các yếu tố âm thanh của ngôn từ để lời văn gợi ra cảm giác
về âm nhạc (âm hưởng, nhịp điệu). Trong thơ, những phương thức cơ bản để tạo nhạc
điệu là gieo vần, ngắt nhịp, điệp, phối hợp thanh điệu bằng - trắc,...
Đối là cách tổ chức lời văn thành hai vế cân xứng và sóng đôi với nhau cả về ý và lời,
có thể chia đôi thành hai loại: đối cân (thuận chiều) và đối chọi (tương phản)
Thi luật là toàn bộ những quy tắc tổ chức ngôn từ trong thơ như gieo vần, ngắt nhịp,
hoà thanh, đối, phân bố số tiếng trong một dòng thơ, số dòng trong cả bài thơ,...
Thể thơ là sự thống nhất giữa mô hình thi luật và loại hình nội dung của tác phẩm
thơ. Các thể thơ được hình thành và duy trì sự ổn định của chúng trong quá trình phát triển của lịch sử văn học.
– Cấu tứ trong thơ
+ Cấu tứ là một khâu then chốt, mang tính chất khởi đầu của hoạt động sáng tạo nghệ
thuật nói chung và sáng tạo thơ nói riêng. Trong lĩnh vực thơ, cấu tứ gắn liền với việc xác
định, hình dung hướng phát triển của hình tượng thơ, cách triển khai bài thơ, sao cho toàn
bộ nhận thức, cảm xúc của nhà thơ về một vấn đề, đối tượng, sự việc nào đó có thể được
bộc lộ chân thực, tự nhiên, sinh động và trọn vẹn nhất.
+ Sản phẩm của hoạt động cấu tử trong thơ là tứ thơ (thường được gọi đơn giản là tứ).
Tứ thơ là sự vận động của hình ảnh thơ theo một logic nhất định nhằm thể hiện ý đồ, tư
tưởng của tác giả. Tứ đưa bài thơ thoát khỏi sơ đồ ý khô khan, trừu tượng để hiện diện
như một cơ thể sống. Nhờ có tứ, tổ chức của bài thơ trở nên chặt chẽ, mọi yếu tố cấu tạo
đều liên hệ mật thiết với nhau và đều hướng về một ý tưởng – hình ảnh trung tâm. Mỗi
bài thơ thường có một cách cấu tứ và một cái tứ riêng.
– Yếu tố tượng trưng
+ Thuật ngữ tượng trưng trong lĩnh vực sáng tác thơ ca trước hết được dùng để chỉ một
loại hình ảnh, hình tượng mang tính đặc thù. Ở đó, người nghệ sĩ thường sử dụng các hình
ảnh, sự vật có thể tri giác được hay các câu chuyện cụ thể để diễn tả hoặc gợi lên cảm
nhận sâu xa về những vấn đề có ý nghĩa bao trùm và mang tính bản chất. Thuật ngữ này
thường xuất hiện trong các kết hợp từ: hình ảnh, hình tượng tượng trưng; yếu tố tượng
trưng; tính chất tượng trưng; chủ nghĩa tượng trưng;...
+ Trước một hình ảnh, hình tượng chứa đựng nhiều tầng nghĩa và gợi lên những cảm
nhận đa chiều, người ta có căn cứ để nói đến sự hiện diện của yếu tố tượng trưng. Yếu tố
này đóng vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính chất tượng trưng của bài thơ.
+ Mọi hình ảnh, hình tượng thơ, xét từ bản chất, đã có tính chất tượng trưng. Nhưng
với những sáng tác thuộc trường phái thơ tượng trưng hoặc thuộc loại hình thơ tượng
trưng, tính chất này đã đạt một chất lượng mới. Điều này liên quan đến sự tự ý thức sâu
sắc của nhà thơ về các mối tương giao bí ẩn trong đời sống, nổi bật là sự tương giao giữa
con người với tạo vật, vũ trụ. – Ngôn ngữ
+ Ngôn ngữ trong thơ nói riêng và ngôn ngữ văn học nói chung hình thành và phát triển
phong phú nhờ lao động tinh thần đặc biệt và đầy cảm hứng của người nghệ sĩ.
Ngoài những đặc điểm chung của ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ thơ nổi bật với những đặc điểm như sau:
+ Tính hàm súc, đa nghĩa: Một từ ngữ có thể gợi nhiều liên tưởng, từ đó tạo dựng trong
trí tưởng tượng người đọc những hình ảnh vừa chân thực vừa giàu sức gợi mở qua việc sử
dụng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ,....
+ Tính truyền cảm: Thơ xuất phát điểm là tiếng nói của cảm xúc mãnh liệt, trực tiếp
nên ngôn ngữ thơ nặng về giá trị biểu cảm. Tâm trạng của nhân vật trữ tình lẫn đối tượng
trữ tình đều được thể hiện rất sinh động.
+ Tính tổ chức cao: Ngôn ngữ thơ được tổ chức, sắp xếp và mang tính nghệ thuật cao,
thể hiện cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Để lạ hoá ngôn ngữ, nhà thơ đã dùng những
cách thức như: đặt những từ quen trong những quan hệ lạ để tìm nghĩa mới, sáng tạo những từ lạ...
2. ĐẶC TRƯNG MỘT SỐ LOẠI THƠ
2.1. Thơ ca dân gian (ca dao) – Khái niệm
+ Ca dao là một thể loại trữ tình dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn tả đời sống nội tâm
của con người. Giữa ca dao và dân ca tuy không có ranh giới quá rõ rệt nhưng cũng có sự
phân biệt. Theo đó, dân ca là những sáng tác kết hợp lời và nhạc, tức những câu hát dân
gian trong diễn xướng. Còn ca dao là lời thơ của dân ca. Ca dao còn bao gồm cả những
bài thơ dân gian mang phong cách nghệ thuật chung với lời thơ của dân ca.
+ Khái niệm ca dao được quan niệm rộng hẹp khác nhau, song có thể định nghĩa như
sau: Ca dao là thơ ca dân gian tồn tại ở dạng lời thơ hoặc điệu hát, gắn bó mật thiết với
đời sống sinh hoạt của nhân dân. Với bản chất trữ tình, ca dao có chức năng diễn tả một
cách trực tiếp tâm hồn, tình cảm của nhân dân lao động.
+ Khi tiếp cận ca dao, cần chú ý tới các yếu tố sau:
• Lời ca: Là lời thơ dân gian được trau chuốt, lưu truyền, kết tinh trong trí nhớ nhân dân.
• Điệu hát: Yếu tố nhịp điệu đặc trưng trong âm nhạc và cũng là yếu tố quan trọng trong
tổ chức nghệ thuật của ngôn ngữ thơ ca. Tính nguyên hợp của văn học dân gian biểu hiện
rõ trong sự kết hợp giữa thơ và nhạc.
• Lối hát: là hình thức sinh hoạt ca hát hay phương thức diễn xướng: hát trong lao động,
trong sinh hoạt nghi lễ hay trong hội hè đình đám.
Nhân vật trữ tình: Trong ca dao truyền thống, chủ thể tác giả luôn đồng nhất với
nhân vật trữ tình. Theo đó, ca dao biểu lộ tình cảm của nhân dân đối với thiên nhiên, đất
nước, những mối quan hệ tình cảm gia đình, những mối quan hệ xã hội vô cùng phong phú, đa chiều,... – Ngôn ngữ:
+ Ngôn ngữ trong ca dao là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, đẹp đẽ, trong sáng, chính
xác bởi nó đã được gọt giũa, trau chuốt, chắt lọc qua nhiều thế hệ. Bản thân ngôn ngữ ca
dao là sự kết hợp giữa ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ đời sống, mang đậm hơi thở của
lời ăn tiếng nói hằng ngày; giữa ngôn ngữ ca dao và ngôn ngữ thơ ca văn học viết; giữa
tính dân tộc và tính địa phương.
+ Ngoài ra, ca dao còn sử dụng một số từ loại tiêu biểu, góp phần biểu đạt hiệu quả thế
giới tâm hồn, tình cảm của người dân lao động.
+ Tính từ, tính ngữ được sử dụng rất dày đặc, tạo nên nét đặc trưng nổi bật của ca dao.
Tính từ thường đi sau danh từ, nhằm nhấn mạnh đặc điểm, phẩm chất nào đó của sự vật.
Những tính từ chỉ màu sắc, tính chất, đặc điểm, đặc biệt là trạng thái tâm hồn nhân vật trữ
tình xuất hiện đậm đặc và có hiệu quả thẩm mĩ rất cao. Có ba nhóm tính ngữ là tính ngữ
chỉ màu sắc như: “má đỏ hồng hồng”, “yếm trắng loà loà”, “mây bạc trời hồng”...; tính


zalo Nhắn tin Zalo