Đề thi giữa kì 1 Ngữ văn 9 Kết nối tri thức (Đề 2)

316 158 lượt tải
Lớp: Lớp 9
Môn: Ngữ Văn
Bộ sách: Kết nối tri thức với cuộc sống
Dạng: Đề thi
File: Word
Loại: Tài liệu lẻ
Số trang: 11 trang


CÁCH MUA:

  • B1: Gửi phí vào TK: 0711000255837 - NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng Vietcombank (QR)
  • B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official ( nhấn vào đây ) để xác nhận thanh toán và tải tài liệu - giáo án

Liên hệ ngay Hotline hỗ trợ: 084 283 45 85


Chúng tôi đảm bảo đủ số lượng đề đã cam kết hoặc có thể nhiều hơn, tất cả có BẢN WORD,  LỜI GIẢI CHI TIẾT và tải về dễ dàng.

Để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút Tải Xuống ở trên!

  • Tailieugiaovien.com.vn giới thiệu bộ đề giữa kì 1 gồm đầy đủ ma trận và lời giải chi tiết môn Ngữ văn 9 Kết nối tri thức mới nhất năm 2024 nhằm giúp Giáo viên có thêm tài liệu tham khảo ra đề thi Ngữ văn 9.
  • File word có lời giải chi tiết 100%.
  • Mua trọn bộ sẽ tiết kiệm hơn tải lẻ 50%.

Đánh giá

4.6 / 5(316 )
5
53%
4
22%
3
14%
2
5%
1
7%
Trọng Bình
Tài liệu hay

Giúp ích cho tôi rất nhiều

Duy Trần
Tài liệu chuẩn

Rất thích tài liệu bên VJ soạn (bám sát chương trình dạy)

Mô tả nội dung:


PHÒNG GD&ĐT HUYỆN
ĐỀ THI GIỮA HỌC KÌ I
……………………..
Năm học: 2024 – 2025
Môn: Ngữ văn – Lớp 9 ĐỀ SỐ 2
(Thời gian làm bài: 90 phút)
I. Đọc hiểu (4,0 điểm)
(Lược một đoạn: Đào Cảnh Long, hiệu là Vân Hiên cư sĩ, là một học trò
nghèo sống vào cuối đời Lê Chiêu Thống, đức độ rộng rãi, tính tình chất
phác, trọng danh nghĩa, chuộng khí khái. Năm Bính Thìn, vì nhà thiếu ăn,
chàng phải đi dạy học thuê cho một nhà giàu).
Ở chỗ dạy học, anh có nuôi một con chó già, sớm hôm chơi đùa với
nó. Anh đi đâu, nó cũng đi theo. Anh ngồi đâu, nó cũng đứng chầu bên
cạnh. Anh đặt tên nó là Hàn Lư. Anh thường đùa với nó:
– Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta
không? Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.
Mấy tháng sau, anh có việc phải trở về quê hương. Con chó phải ở
lại. Nó quanh quẩn ra vào ở cửa phòng học. Ban ngày xua đuổi gà lợn,
ban đêm phòng giữ kẻ gian. Nhiều khi bọn trẻ lãng quên, không cho ăn,
tiếng sủa của con chó không còn được sang sảng nữa.
Bấy giờ, trong làng có một phú ông họ Trương thấy vậy, thương hại,
đem cơm đến cho ăn. Vừa bước vào cửa phòng học, liền bị con chó cắn
phải. Ông trách mắng:
– Hàn Lư! Hàn Lư! Vì thương mày đói lâu nay, nên ta đến đưa cơm
cho mày ăn. Ta đâu phải là kẻ bất nhân! Mày tuy là giống vật, nhưng
cũng biết suy nghĩ chút ít. Sao mày lại lấy oán trả ân?
Ông chưa dứt lời, con vật chồm lên, nhe răng, giơ vuốt, nói bằng tiếng người:
– Ngày chủ tôi đi có căn dặn tôi phải bảo vệ phòng học, trông nom
bọn trẻ. Ngăn chặn kẻ ác, cấm đoán kẻ gian là trách nhiệm của tôi. Ông
tới đột ngột, lại không có chủ tôi đón tiếp, thì bị cắn một miếng là đúng lẽ
thôi! Thế mà còn trách mắng nặng lời gì nữa!
Thấy con chó biết nói tiếng người, lại nói đúng lẽ, phú ông thầm
nghĩ trong bụng nó là con vật kì lạ, ý muốn dụ dỗ, bèn nói:
– Ông chủ của mày bản chất là thầy đồ nghèo. Mình hắn chẳng đủ
miếng ăn, lấy đâu ra dành cho mày nữa. Bây giờ chi bằng mày bỏ chỗ
tối, tới chỗ sáng, bỏ nhà nghèo, tới nhà giàu, tìm nơi no đủ, sung sướng
suốt đời, có phải hơn không? Tội gì mà phải chịu khổ mãi? Con chó nói:
– Ôi! Ông cũng là người, sao nỡ mở miệng buông lời như thế. Kẻ sĩ
trung nghĩa, không vì cùng hay thông mà thay đổi ý chí, cho nên đến mùa
rét mới biết rõ bách tùng tươi tốt hơn các cây khác, gặp gió mạnh mới
hay cây đứng được vững chắc. Giống súc vật tuy khác với loài người,
song vẫn có tính trời phú, biết giữ vững khí tiết đối với chủ của mình.
Huống hồ ông chủ của tôi lại là một người luôn biết giữ lòng chân chính,
sống nghề quang minh, trung để thờ vua, tín để kết bạn, hiếu với cha mẹ,
hòa thuận họ hàng, trời sắp giao cho trách nhiệm quan trọng, cho nên
bắt phải cùng khổ thiếu thốn, để trau dồi cho được thành công tốt đẹp đó
thôi! Ông nói năng lung tung chẳng đúng gì, nên tôi tha thứ cho. Nếu
không miệng này sẽ cắn cho một miếng nữa, chẳng ngần ngại gì! Hãy
mau mau lui về, chớ để sau phải hối tiếc!
Phú ông nghe xong, sửng sốt ngây dại, hiểu rõ con vật có nghĩa,
không thể giành giật được, đành mang cơm ra về.
Vài hôm sau, Đào Cảnh Long trở về, con chó mừng rỡ ra cửa đón
tiếp, hình dáng tiều tụy khôn xiết. Nghe xóm giềng kể lại câu chuyện, Đào
Cảnh Long cảm động lắm, ngậm ngùi lấy làm lạ mãi. Anh kiểm tra lại
phòng sách, thì khóa cửa không di chuyển, giường chiếu còn y nguyên,
đều là nhờ con chó hết sức canh giữ.
Ôi! Con chó là loài súc vật, mà còn biết giữ lòng tiết nghĩa thờ chủ.
Dù dùng lời đường mật dụ dỗ, cũng không thể lay chuyển lòng dạ sắt đá
của nó. Huống gì con người ăn lộc nhà vua, nếu giữ vững đầy đủ cái lòng
tiết nghĩa ấy để đền ơn nước, xông ra đánh giặc, giặc nào chẳng tan; cố
sức giữ thành, thành nào chẳng vững…
Than ôi! Sao mà lòng người chẳng còn được như xưa, thói đời đổi
thay nhiều dạng? Lúc nước nhà yên vui thì bợ đỡ cầu vinh, lúc cuộc đời
rối ren thì trở mặt đổi giọng, bán nước kiếm ăn, theo thời cầu lợi, không
còn chút liêm sỉ, thật là quá quắt!
Vì vậy, tôi cho rằng ở đời nhiều kẻ không bằng con Hàn Lư đấy!
Nhân ghi lại mẩu chuyện để răn bảo người đời.
(Trích Chuyện con chó có nghĩa của một nhà nghèo, Phạm Quý Thích,
in trong Truyện truyền kì Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh – Nguyễn Quang Ân
sưu tầm, tuyển chọn, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.320 – 332)
Thực hiện các yêu cầu sau:
Câu 1 (0,5 điểm) Xác định ngôi kể của văn bản.
Câu 2 (0,5 điểm) Chỉ ra lời của nhân vật, lời của người kể chuyện trong những câu văn sau:
Anh thường đùa với nó:
– Mày được ta chăm nuôi, mày có chịu dốc sức liều chết vì ta không?
Con vật gật đầu, nghoe nguẩy đuôi như tỏ ý nhận lời.
Câu 3 (1,0 điểm) Chỉ ra và phân tích tác dụng của yếu tố kì ảo được sử dụng trong văn bản.
Câu 4 (1,0 điểm) Xác định chủ đề của văn bản.
Câu 5 (1,0 điểm) Anh/Chị rút ra được những bài học gì cho bản thân sau qua văn bản trên?
II. Viết (4,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm) Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày
cảm nhận về nhân vật người tiều phu trong đoạn trích sau:
Đất Thanh Hóa hầu hết là núi, bát ngát bao la đến mấy ngàn dặm.
Có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi là núi Na. Núi có cái động, dài mà
hẹp, hiểm trở quạnh vắng không có chân người, bụi trần không bén tới.
Trong động có người tiều phu hàng ngày gánh củi ra đổi lấy cá và rượu,
cốt được no say chứ không lấy tiền. Ai hỏi tên họ nhà cửa, tiều phu chỉ
cười mà không nói. Người chung quanh đều cho rằng đây phải là bậc kỳ
sỹ ở ẩn. Khoảng năm Khai Đại nhà Hồ, Hán Thương đi săn, chợt gặp ở
đường, vừa đi vừa hát rằng: […]
“Núi xanh bao bọc quanh nhà
Ruộng đem sắc biếc xa xa vòng ngoài
Ngựa xe võng lọng mặc ai
Nước non này chẳng trần ai vướng vào”
[…] Hát xong, phất áo đi thẳng. Hán Thương đoán là một bậc ẩn
giả, bèn sai quan hầu là Trương Công đi mời. Nhưng Trương theo gần
đến nơi thì tiều phu đã đi vào động, gọi cũng không trả lời, chỉ thấy rẽ
mây lách khói, đi thoăn thoắt trong rừng tùng khóm trúc.
Biết không phải là người thường, Trương bèn rón bước đi theo, rẽ
cỏ tìm đường. […] Thấy Trương đến, tiều phu kinh ngạc hỏi:
– Chỗ này thanh vắng, đất thẳm rừng sâu, chim núi kêu ran, muông
rừng chạy vẩn, thế mà sao ông lại lần tới đây, chẳng cũng khó nhọc lắm ư? Trương trả lời:
– Tôi là chức quan tùy giá của đương triều; biết ngài là bậc cao sỹ
nên vâng mệnh đến đây tuyên triệu. Hiện loan giá đang đợi ngoài kia, xin
ngài quay lại một chút.
Tiều phu cười mà rằng:
– Ta là kẻ dật dân trốn đời, ông già lánh bụi; gửi thân nơi lều tranh
quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say,


zalo Nhắn tin Zalo